Kỳ vọng về cây trẩu nơi vùng biên Mường Lát
Cây trẩu đang được xác định là cây có giá trị kinh tế, mang lại nguồn thu nhập đồng thời cũng là loại cây có tác dụng bảo vệ môi trường, phòng hộ hiệu quả... Ở vùng biên Mường Lát, bà con nơi đây đang ngày càng gắn bó hơn với loại cây này.

Bà con dân tộc Dao bản Pù Quăn, xã Pù Nhi chăm sóc cây trẩu. Ảnh: TL
Khả quan trong việc trồng rừng và tạo nguồn thu nhập
Gia đình anh Thao Văn Cụa, sinh năm 1989, ở bản Kéo Té (xã Nhi Sơn) có khoảng 10ha đất rừng sản xuất. Năm 2012, gia đình anh Cụa trồng hơn 4ha xoan, những năm đầu cây lớn nhanh rồi bắt đầu chậm lại. Hơn 12 năm gắn bó với cây xoan, anh Cụa đã phải chuyển hướng sang cây trồng khác như sắn, lúa và chăn nuôi trâu bò. Năm 2024, khi huyện Mường Lát có chủ trương hỗ trợ trồng rừng sản xuất từ nguồn vốn xã hội hóa, gia đình anh Thao Văn Cụa đã mạnh dạn đăng ký và trồng gần 3ha cây trẩu trên diện tích đã trồng xoan trước đó. “Được huyện hỗ trợ cây giống, cách chăm sóc, bảo vệ nên gia đình đã yên tâm “đến” với cây trẩu, vừa góp phần giữ đất, giữ rừng, vừa mong cây trẩu sẽ góp phần xóa nghèo...", anh Thao Văn Cụa cho biết.
Ở bản Kéo Té có 64 hộ, chủ yếu là hộ nghèo, cận nghèo. Ngoài gia đình anh Cụa còn có 9 hộ hiện cũng đang trồng trẩu, trong đó một số hộ có diện tích trẩu nhiều như Thao Văn Lự A, Chá Thị Pa. Bà con bản Kéo Té cũng như các hộ dân khác có đất rừng sản xuất ở Nhi Sơn cũng hy vọng, trẩu là cây trồng phù hợp, đem lại hiệu quả kinh tế... Bởi, đây là loại cây có nhiều ưu điểm, thích hợp với chất đất, khả năng thích nghi cao, chịu được hạn, kể cả trên diện tích đất có địa hình đồi núi dốc, đất đai cằn cỗi, cây trẩu vẫn phát triển xanh tốt. Hơn nữa, trồng trẩu nhanh thành rừng và sau 3 đến 5 năm trồng, có thể thu hoạch quả lấy hạt, 7 năm là có thể thu được gỗ.
Ban quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH) Mường Lát được UBND tỉnh giao quản lý 3.476,69ha rừng và đất lâm nghiệp. Để nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng, hàng năm BQLRPH xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các phương án giữ vững ổn định an ninh rừng và quản lý chặt chẽ nguồn lâm sản trên địa bàn. Diện tích đất quy hoạch cho rừng sản xuất được điều chỉnh, đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế huy động mọi nguồn lực để bảo vệ và phát triển rừng.
Để góp phần tạo sinh kế cho người dân ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế trên tuyến biên giới, năm 2021, BQLRPH Mường Lát bắt đầu trồng cây trẩu tại khu phố Chiên Pục (thị trấn Mường Lát) và bản Cân, bản Tân Hương (xã Tam Chung) được hơn 11ha, nâng tổng diện tích lên 50ha trồng trên đất rừng sản xuất. Năm 2022, BQLRPH tiếp tục trồng được 50ha trẩu trên đất rừng sản xuất và 20ha trên đất rừng phòng hộ tại bản Suối Lóng (xã Tam Chung). Năm 2023, BQLRPH đã trồng xen canh cây trẩu và tếch được 29,57ha, đưa tổng diện tích trồng lên 149,57ha. Năm 2024, BQLRPH tiếp tục mở rộng và trồng mới cây trẩu trên địa bàn.
Hiện nay, những cây trẩu bản địa được người dân trồng ở rừng sản xuất, có những cây cho thu hoạch 100 kg/năm, với giá bán tại thời điểm BQLRPH Mường Lát thu mua làm cây giống là 10.000 - 15.000 đồng/kg. "Trẩu đang được xác định là cây có giá trị kinh tế, mang lại nguồn thu nhập cho bà con đồng bào vùng cao. Ngoài ra, trẩu là cây tạo được nguồn sinh thủy, có tác dụng cải thiện môi trường, phòng hộ hiệu quả. Đây là tín hiệu bước đầu cho thấy, khả quan trong việc trồng rừng bằng cây trẩu, là nguồn thu nhập ổn định cho người dân và tăng độ che phủ rừng. Từ những hiệu quả trên, BQLRPH tiếp tục tăng cường phối hợp cùng chính quyền địa phương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về việc phát triển cây trẩu trên địa bàn, phấn đấu trồng mới rừng sản xuất năm 2025 trên 180ha, góp phần phủ xanh đất trống, đồi trọc", ông Mai Văn Đảm, Giám đốc BQLRPH Mường Lát cho biết.
Để cây trẩu phát triển bền vững
Tháng 8/2023, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã công bố và bàn giao kết quả nghiên cứu, xây dựng bản đồ thổ nhưỡng – nông hóa huyện Mường Lát. Đây là nguồn tài liệu rất quan trọng để huyện Mường Lát làm cơ sở khoa học, thực tiễn nhằm chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch sản xuất, bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện đất đai, kinh tế – xã hội và giúp cho các cấp, ngành địa phương, tổ chức, đơn vị chủ rừng, doanh nghiệp trên địa bàn tiếp cập nguồn tài liệu để chủ động trong công tác tổ chức sản xuất của đơn vị đạt hiệu quả.

Bà con bản Kéo Té, xã Nhi Sơn gieo hạt giống trẩu trên đất rừng sản xuất. Ảnh: TL
Trên cơ sở tổng hợp thông tin kết quả điều tra, khảo sát thực địa cho phép lựa chọn 16 loại cây trồng rừng có khả năng phát triển được ở địa bàn Mường Lát (gồm quế, trẩu lá xẻ, thông ba lá, thông Caribe, thông nhựa, thông đuôi ngựa, sa mu, bồ đề, dổi xanh, mỡ, luồng, vầu, cọ phèn, cọ khiết, đậu thiều và lát hoa) để đưa vào phân hạng, đánh giá thích nghi, làm căn cứ đề xuất sử dụng. Viện Nông nghiệp đề xuất một số cây trồng lâm nghiệp chính theo vùng sinh thái, trong đó, cây trẩu phù hợp tại 4 vùng sinh thái được phân chia trên địa bàn huyện Mường Lát như: Vùng 1 (Trung Lý, Mường Lý, Tam Chung); vùng 2 (Quang Chiểu, Mường Chanh); vùng 3 (Pù Nhi, Nhi Sơn); vùng 4 (thị trấn Mường Lát).
Trên cơ sở tài liệu, bản đồ thổ nhưỡng – nông hóa Viện Nông nghiệp Thanh Hóa bàn giao, thời gian qua, huyện Mường Lát đã tổ chức tuyên truyền, khai thác, sử dụng tài liệu đưa vào xây dựng kế hoạch sản xuất, bố trí cây trồng phù hợp với địa phương, đồng thời tuyên truyền đến người dân về những kết quả nghiên cứu, giúp người dân có thể tự trang bị các kiến thức về sử dụng đất hợp lý, bảo vệ đất và bảo vệ môi trường. Ngày 20/12/2024, UBND tỉnh Thanh Hóa ban hành Quyết định số 5059/QĐ-UBND về việc giao chủ đầu tư phân bổ kế hoạch vốn ủy thác trồng rừng thay thế đợt 1 năm 2025 cho các địa phương, đơn vị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay, Hạt Kiểm lâm huyện Mường Lát đang phối hợp với các đơn vị tổ chức khảo sát, thẩm định, thiết kế dự toán hỗ trợ trồng rừng trên địa bàn. Dự kiến năm 2025, huyện Mường Lát sẽ trồng 500ha cây trẩu trên diện tích đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại 8/8 xã, thị trấn trên địa bàn.
Việc phát triển trồng trẩu lấy dầu sẽ giúp người dân có thêm việc làm ổn định, tăng thu nhập; góp phần nâng cao độ che phủ rừng, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và bảo đảm quốc phòng - an ninh khu vực biên giới.