Lãi suất điều hành giảm liên tục tác động thế nào đến nền kinh tế, doanh nghiệp?
Ngay sau quyết định giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, nhiều ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất huy động.
Nhiều ngân hàng giảm lãi suất huy động
Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) giảm lãi suất kỳ hạn 1 tháng về 4,5%/năm, kỳ hạn 2-5 tháng còn 4,75%/năm, giảm cao nhất 0,5 điểm % so với trước đó. Ở các kỳ hạn dài, ABBank cũng điều chỉnh mạnh khi từ 8,3%/năm xuống còn 7,9%/năm các kỳ hạn từ 15 tháng trở lên, giảm 0,4 điểm % so với trước đó.
Ngân hàng Quốc tế (VIB) hạ lãi suất huy động với mức giảm 0,1 điểm % các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên. Theo biểu lãi suất huy động online mới nhất của VIB, lãi suất huy động kỳ hạn 6 - 8 tháng hiện là 7,3%/năm; kỳ hạn 9 - 11 tháng là 7,4%/năm; các kỳ hạn từ 15 tháng trở lên có lãi suất 7,5%/năm. Đây là lần thứ hai trong tháng 6, VIB thực hiện giảm lãi suất huy động.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (Saigonbank) cũng điều chỉnh giảm 0,2 điểm % ở một số kỳ hạn. Lãi suất huy động online kỳ hạn 6 - 8 tháng đã giảm 0,2 điểm phần trăm còn 7%/năm; kỳ hạn 9 - 11 tháng cũng giảm tương tự xuống còn 7,1%/năm. Cũng với mức giảm này, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng hiện còn 7,4%/năm, trong khi các kỳ hạn còn lại vẫn được giữ nguyên. Trong đó, mức lãi suất cao nhất tại Saigonbank thuộc về kỳ hạn 13 tháng, lên tới 8%/năm.
Tại Ngân hàng TMCP Đại chúng (PvcomBank), dù lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng cập nhật hồi đầu tháng 6.2023 đã ở mức 4,5%/năm, dưới trần theo quyết định mới của Ngân hàng Nhà nước nhưng PvcomBank vẫn tiếp tục giảm lãi suất các kỳ hạn này xuống 4,25%/năm.
Ngày 16.6 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành các quyết định điều chỉnh các mức lãi suất. Trong đó quy định lãi suất tối đa áp dụng với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên ở mức 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5,0%/năm xuống 4,75%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường. Quyết định hiệu lực từ ngày 19.6.
Dù Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng, nhưng giới chuyên gia dự báo lãi suất các kỳ hạn dài cũng sẽ giảm trong thời gian tới.
Xác lập xu hướng giảm lãi suất cho vay
Trao đổi với Một Thế Giới về động thái giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng thời gian tới, chuyên gia tài chính - TS. Cấn Văn Lực cho biết, thị trường đang kỳ vọng lãi suất điều hành sẽ giảm về mức 4%/năm, tương đương với lãi suất trước đại dịch COVID-19.
Theo ông Lực, Ngân hàng Nhà nước đang chuyển trạng thái chính sách tiền tệ từ thận trọng, chặt chẽ sang hướng nới lỏng thận trọng, hỗ trợ tăng trưởng. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đang điều hành lãi suất theo xu hướng giảm, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, ban hành chính sách cơ cấu lại nợ, hỗ trợ thanh khoản hệ thống, đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.
Nói về dư địa để giảm lãi suất cho vay, vị chuyên gia này mong đợi ngân hàng sẽ hạ lãi suất xuống mức thấp, điều đó có lợi cho doanh nghiệp, cho người tiêu dùng, cũng như sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó cũng xác lập được xu hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay trong thời gian tới. Về phía các ngân hàng, việc gia tăng các tiện ích tiền gửi không kỳ hạn đã giúp ngân hàng thu hút vốn lãi suất thấp để giữ lãi suất cho vay không tăng.
Để giảm được lãi suất cho vay, ông Lực cho rằng, ngân hàng phải cắt giảm chi phí đầu vào cũng như tiết giảm chi phí hoạt động, vận hành. Lãi suất cho vay hiện được các ngân hàng thương mại áp dụng theo cung - cầu thị trường và có sự cạnh tranh rất lớn giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài đang hoạt động, kinh doanh tại Việt Nam. Trong khi đó, hiện nay đang có sự phân hóa rất lớn về lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp.
Bốn tác động của việc giảm lãi suất điều hành với nền kinh tế và doanh nghiệp
Trong Báo cáo đánh giá nhanh về "Động thái giảm tiếp lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước và kiến nghị" vừa mới được công bố, TS. Cấn Văn Lực cùng nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho rằng, có 4 tác động của việc giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước đối với nền kinh tế và doanh nghiệp.
Một là, việc giảm lãi suất sẽ hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc tiếp cận vốn từ Ngân hàng Nhà nước qua các công cụ như cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, liên ngân hàng; qua đó, giúp các tổ chức tín dụng có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất huy động và cho vay. Đồng thời, tăng trưởng tín dụng được kỳ vọng sẽ khởi sắc hơn khi lãi suất giảm trong thời gian tới, qua đó góp phần tăng thu nhập từ tín dụng và các dịch vụ liên quan cho các tổ chức tín dụng.
Hai là, lãi suất giảm đối với cả nợ cũ và vay mới sẽ hỗ trợ doanh nghiệp, bên vay vốn, giảm một phần chi phí tài chính. Doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn mới gồm vay nợ, phát hành trái phiếu với lãi suất thấp hơn, vừa góp phần tăng khả năng trả nợ, giảm rủi ro nợ xấu, giảm chi phí đầu vào, vừa tạo điều kiện giảm giá đầu ra tương ứng, qua đó kích thích tiêu dùng.
Ba là, động thái chính sách này tiếp tục cho thấy thay đổi chính sách tiền tệ, từ thận trọng sang linh hoạt, nới lỏng, theo đó, doanh nghiệp và người dân có kỳ vọng lãi suất tiếp tục giảm, khiến họ có thể quyết định đầu tư, tiêu dùng nhiều hơn, góp phần hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội năm nay và năm tới.
Bốn là, lãi suất giảm sẽ có tác động tích cực một phần lên thị trường chứng khoán và bất động sản khi mà nhà đầu tư có thể sẽ chuyển dịch một phần từ tiền tiết kiệm sang chứng khoán, mua bất động sản với mong muốn tìm kiếm tỷ suất sinh lời cao hơn cùng với kỳ vọng về triển vọng phục hồi của thị trường chứng khoán hoặc chi phí mua bất động sản thấp hơn...
"Tuy nhiên, điều này phụ thuộc nhiều vào khẩu vị rủi ro của mỗi nhà đầu tư vì đầu tư chứng khoán, bất động sản rủi ro hơn so với gửi tiền tiết kiệm", TS. Lực nhấn mạnh.
Năm kiến nghị
Để chính sách trên tiếp tục phát huy tác dụng, giảm độ trễ, tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất, TS. Cấn Văn Lực cùng nhóm nghiên cứu có năm kiến nghị.
Một là, tuy không chủ quan nhưng cũng không quá quan ngại với lạm phát. Áp lực lạm phát của Việt Nam vẫn còn do có độ trễ nhập khẩu lạm phát, giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý có thể tăng như giá điện, phí y tế - giáo dục, lương cơ sở tăng từ ngày 1.7, cung tiền năm nay khá lớn từ đầu tư công, tín dụng, kênh dẫn vốn khác được khơi thông tốt hơn.
"Tuy nhiên, chúng ta cũng không quá quan ngại lạm phát năm nay do lạm phát và giá cả toàn cầu đang giảm, tỷ giá ổn định, sức cầu còn yếu, vòng quay tiền còn chậm. Dự báo CPI bình quân cả năm tăng khoảng 4%. Mặc dù vậy, cần nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách, nhất là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, giá cả và các chính sách vĩ mô khác nhằm chủ động kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô", vị chuyên gia này cho hay.
Hai là, theo sát tình hình thị trường tài chính quốc tế, nhất là đối với thị trường tài chính - tiền tệ, động thái của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương các nước lớn, để phân tích, dự báo và đưa ra kịch bản ứng phó phù hợp, nhằm đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống tài chính trong nước, cũng là góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kiểm soát rủi ro hệ thống ngân hàng, chứng khoán.
Ba là, đẩy nhanh cơ cấu lại các tổ chức tín yếu kém và thanh khoản còn mỏng nhằm giảm thiểu cạnh tranh tăng lãi suất không lành mạnh, đôi khi phá vỡ mặt bằng lãi suất chung, khiến việc giảm lãi suất trở nên khó khăn hơn.
Bốn là, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo quyết liệt hơn nữa việc cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh , hỗ trợ cả chi phí đầu vào thông qua các chính sách giãn hoãn, giảm thuế, phí đang tiến hành và mở rộng, nếu cần, và hỗ trợ đầu ra như đa dạng hóa, tìm kiếm thị trường, đối tác, đơn hàng... Quan trọng hơn là có giải pháp cụ thể tăng hiệu quả thực thi công vụ của bộ máy hành chính; tháo gỡ kịp thời các vướng mắc nhất là về thủ tục hành chính, pháp lý... trong các lĩnh vực như đất đai, bất động sản, xây dựng, đấu thầu, thông quan, tiếp cận điện, phòng cháy chữa cháy, đăng kiểm...
"Đây chính là các giải pháp đồng bộ giúp doanh nghiệp, người dân giảm khó khăn, thách thức và cũng là kích cầu đầu tư, tiêu dùng và tín dụng trong thời gian tới", TS. Lực nói.
Cuối cùng là, bản thân các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, tiết giảm chi phí, tăng cường quản lý rủi ro nhất là rủi ro thị trường, rủi ro tài chính, pháp lý... Qua đó có điều kiện giảm lãi suất trên diện rộng và bền vững hơn.