Làm báo Cứu Quốc thời kỳ bí mật

Báo Cứu Quốc - tờ báo của Mặt trận Việt Minh ra đời trong thời kỳ bí mật đã góp phần tích cực tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và các chủ trương của Mặt trận, phản ánh phong trào đấu tranh của các đoàn thể quần chúng, vạch mặt kẻ thù, tranh thủ mọi tầng lớp nhân dân...

Trong hồi ức của những nhà báo thời kỳ này, đây là một giai đoạn vô cùng gian khổ nhưng cũng đầy kỷ niệm khó quên.

Phương pháp làm báo đặc biệt

Số báo Cứu Quốc đầu tiên xuất bản ngày 25-1-1942. Trực tiếp phụ trách báo là các đồng chí Trường Chinh và Lê Quang Đạo. Lúc đó không tổ chức thành tòa soạn và biên tập, mà từng kỳ cho giao thông mang bài vở, tin tức đến nhà in để nhà in tự ý trình bày thành các trang báo. Đôi khi đồng chí Nguyễn Khang trực tiếp đến nhà in xem xét công việc.

Cuối năm 1944, nhà báo Xuân Thủy ra tù được giao phụ trách báo, sau đó có thêm các ông Phạm Văn Hảo, Trần Huy Liệu cũng ở nhà tù ra, bước đầu hình thành mô hình tòa soạn. Trong cuốn hồi ký “Những chặng đường báo Cứu Quốc”, nhà báo Xuân Thủy nhớ lại: “Tôi chịu trách nhiệm trực tiếp về tờ báo, nên khi họp tòa soạn, tôi trình bày khuôn khổ tờ báo theo số giấy mình có. Giấy từ Hà Nội chuyển về một cách bí mật. Số bao nhiêu trang, trọng tâm là vấn đề gì, có những mục gì, những bài gì... Tòa soạn nhất trí xong ai nhận viết bài nào thì hẹn ngày nộp bài, rồi mỗi người đi một ngả... Có bài sửa xong, tôi phải đem đến mấy tổ Cứu quốc đọc cho anh chị em nghe, xem các bạn có hiểu không và góp ý gì, rồi tôi mang về sửa lại. Làm như thế tờ báo mới sát bạn đọc”.

Nhà báo Nguyễn Văn Hải, quản lý Báo Cứu Quốc cho biết: Do hoàn cảnh hoạt động bí mật, địch khủng bố gắt gao, điều kiện in khó khăn, nên báo ra không đều kỳ, nhất là thời gian đầu mấy tháng mới ra được 1 số, ví dụ tờ báo số 3 ra ngày 5-3-1943, số 7 ra ngày 15-7-1943. Đến nay mới xác định được từ đầu (25-1-1942) đến ngày Tổng khởi nghĩa, báo ra tất cả được khoảng 20 - 21 số. Từ cuối năm 1943, đầu năm 1944, báo ra hằng tháng đều đặn hơn. Trong cao trào tiền khởi nghĩa, báo ra nhiều hơn. Báo thường xuất bản 4 trang, khổ 27 x 38cm bằng nhiều loại giấy khác nhau: Giấy dó, giấy bản, có khi cả giấy "nhật trình", giấy "tàu bạch", số lượng in 500 - 1.000 bản, chủ yếu là in li tô.

Nhà báo Nguyễn Văn Hải trong cuốn “Báo Cứu Quốc 1942 - 1954” cho biết: “Gọi là nhà in, nhưng thực ra chỉ có mấy hòn đá, ít mực in, giấy in, mấy con lăn và dụng cụ lặt vặt, khi đặt ở chỗ này, khi đặt ở chỗ khác, trong buồng nhà dân, ở các địa điểm di chuyển đến. Nhà in báo Cứu quốc lấy tên là Nhà in Phan Đình Phùng, nhà in báo Cờ Giải phóng lấy tên là Nhà in Trần Phú”.

Trong cuốn "Xuân Thủy, nhà hoạt động chính trị, ngoại giao xuất sắc, nhà báo, nhà thơ lớn", nhà báo Xuân Thủy chia sẻ: "Về cách in li tô, chúng tôi mua đá ở núi chùa Trầm, cách Hà Nội khoảng hơn hai chục cây số. Tại đây người ta xẻ đá thành từng tấm làm mặt bàn. Chúng tôi chọn những tấm đá trắng không có vân, dày hơn 1 phân, chiều dài 60 phân, ngang 45 phân, có khi nhỏ hơn, ít nhất là hai tấm. Mang đá về, chúng tôi dùng hòn đá nháp mài lên mặt tấm đá trắng ấy cho nhẵn, phẳng, rồi lại dùng đá mài dao để mài nữa cho thật mịn. Mỗi lần mài đều vẩy nước cho trơn, cuối cùng rửa nước thật sạch tấm đá trắng rồi đem phơi khô. Khi đã khô rồi, cứ trông mẫu trình bày, dùng ngòi bút sắt nhúng mực charbonnese viết và vẽ lên mặt tấm đá. Toàn viết chữ ngược và hình vẽ ngược. Phải có giấy lót, không để mồ hôi tay hay vết tay dính vào những vật đang làm. Sau dùng nước chanh pha loãng rửa mặt đá cho sạch chỉ còn chữ viết, và hình vẽ hằn lại trên đá. Chờ tấm đá khô mới in. Trước khi in, dùng nước lã xoa vào mặt đá cho ướt. Một người cầm trục lăn (rulô làm bằng gỗ, bọc dạ, ngoài lớp dạ lại bọc một lớp săm xe đạp) nhấn vào mực in đã đổ sẵn trên miếng sắt mỏng, lăn trục trên mặt đá. Mực không dính vào chỗ đá có nước ướt, mà thấm xuống chỗ hằn của nét chữ và nét vẽ. Một người khác đặt tờ giấy chưa có chữ và hình vẽ lên mặt tấm đá đã lăn mực, dùng một trục lăn khác khô và sạch lăn lên mặt tờ giấy. Bóc tờ giấy ra là thành một tờ báo. In xong tờ này, lại đặt tờ khác lên mặt đá và lại làm như thế. Mỗi ngày in được khoảng 300 tờ. Nếu báo in hai hay bốn trang hoặc nhiều trang hơn, thì phải dùng nhiều tấm đá, nhiều người làm, cũng theo cách thức như trên. Các tấm đá in xong, dùng nước chanh rửa sạch và mài lại để dùng lần sau".

Viết chữ xuôi cho đẹp đã khó, viết chữ ngược mà đẹp, đều tăm tắp lại càng khó hơn. Vậy mà các nhà báo cách mạng của chúng ta, cách đây hơn 80 năm rất thành thạo viết ngược, mà lại viết ngược trên đá. Vì chỉ có viết ngược trên đá thì mới thực hiện được cách in báo kỹ thuật in li tô, thay vì đưa vào máy in hàng loạt như hiện nay.

Tòa soạn, nhà in bí mật “giữa lòng dân”

Địa điểm nhà in thời kỳ này phải tuyệt đối giữ bí mật. Nhà in Báo Cứu Quốc đóng ở xã Liễu Khê (Song Liễu), huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, được đồng bào bố trí trong một buồng kín ở đầu hồi nhà, nơi dùng để chứa những bịch, bồ thóc, thúng quần áo cũ, mấy đồ lặt vặt. Cửa luôn khép chặt, không khí ẩm mốc, sực mùi thóc gạo và mùi quần áo, chăn màn cũ. Những ngày đi công tác, cán bộ nhà in phải đi từ khoảng 4h sáng, tối nhá nhem mới về, chủ nhà làm sẵn một lỗ "chó chui" ở hàng rào chứ không được đi lối cổng chính. Những ngày ở nhà in báo, chủ nhà vạch cho một khoảng trống nhỏ trên mái hoặc vách đầu hồi để lấy ánh sáng. Cơm nước thì chủ nhà sẽ giúp để giữ bí mật cho cán bộ. Dù vậy, để đảm bảo an toàn, cán bộ nhà in luôn sẵn sàng các phương án thoát thân nếu có địch đến.

Tháng 7-1944, nhà in Báo Cứu Quốc chuyển về phía Hà Đông. Lúc đầu ở tạm nhà bà Hai Lẫm ở Vạn Phúc, sau chuyển đến xóm Đồi, thôn Tiên Lữ, huyện Chương Mỹ, cạnh nhà thờ Đại Ôn, trông sang chùa Trầm. Địa điểm này là một khu đồi nhiều cây, ít nhà nên khá đảm bảo bí mật. Trong hồi ký “Báo Cứu Quốc 1942 - 1954”, nhà báo Nguyễn Văn Hải kể chuyện “chạy giặc” như sau: “Hồi này là 27, 28 Tết, anh em cảm thấy địch đã đánh hơi thấy, không ổn lắm. Đảng định chuyển địa điểm thì sáng sớm, tri phủ cho lính về bao vây vì có người báo ở đây đang in bạc giả. Anh Xuân Thủy chạy ra khuất vào phía trong. Anh Lê Viên vội bê tất cả các phiến đá, giấy mực cất vào hang núi sau nhà đã chuẩn bị sẵn. Anh Viên kịp trèo ngược lên mỏm đá tai mèo lên núi phía sau thì địch đạp cửa vào. Chúng lục soát không thấy gì, tuy bếp vẫn còn tán lửa và nồi cơm nếp. Tìm mãi không thấy ai chúng đành ra về. Sau mấy đứa truyền tụng nhau là “Việt Minh có phép tàng hình, rõ ràng có người ở trong nhà mà vào không bắt được ai cả”.

Để giữ bí mật, tháng 4-1945, cơ quan Báo Cứu Quốc chuyển về thôn Thu Quế, xã Song Phương, huyện Đan Phượng, sau lại chuyển về Vạn Phúc trước khi chuyển về Thủ đô sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Theo nhà báo Xuân Thủy, tòa soạn đóng tại Thu Quế trong một điều kiện thiếu thốn “vừa là chuồng lợn, vừa là bếp đun, vừa là nơi tòa soạn làm việc hằng ngày”, việc viết bài, họp, ăn diễn ra trên chiếc chõng tre duy nhất. Và nhà báo Xuân Thủy đã có mấy vần thơ để khắc họa lại khung cảnh và ý chí sắt đá của những nhà báo cách mạng như sau: “Văn chương đã át hơi chuồng lợn/ Khói lửa thêm nung chí diệt thù/ Chiếc chõng nan tre bền sắt thép/ Phen này phát xít hẳn ra tro!”.

Làm báo thời kỳ bí mật với biết bao hiểm nguy, gian khổ, thiếu thốn mọi bề, nhưng bằng nhiệt huyết cách mạng và tinh thần xung kích trên mặt trận tư tưởng, những nhà báo - chiến sĩ của chúng ta đã vượt lên tất cả để cùng dân tộc đi đến Tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945 thắng lợi...

Thành Nam

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/lam-bao-cuu-quoc-thoi-ky-bi-mat-705912.html