Làm gì để chuỗi cung ứng và logistics không 'cản đường' xuất khẩu gỗ?
Ngành gỗ Việt Nam đang đối mặt nhiều trở ngại lớn về chuỗi cung ứng và logistics như chi phí cao, cạnh tranh gay gắt, chính sách xuất nhập khẩu của các quốc gia lớn, phòng vệ thương mại, thuế quan…Để xuất khẩu gỗ không bị 'cản đường' trước trở ngại này đòi hỏi cần có những tác động thực tiễn để kéo giảm chi phí, tăng hiệu quả chuỗi cung ứng và cải thiện năng lực cạnh tranh.
Trong chia sẻ mới nhất với các nhà xuất khẩu gỗ ở Tp.HCM về chuỗi cung ứng và logistics ngành gỗ của Việt Nam hiện nay, ông Nguyễn Chánh Phương, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến Gỗ Tp.HCM (Hawa), đã chỉ rõ chi phí logistics chiếm 20-30% chi phí xuất khẩu (XK), ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp (DN) trong ngành.
Đối mặt nhiều trở ngại lớn
Trong đó, các chi phí chiếm tỷ lệ tương ứng là: Vận chuyển quốc tế (cước tàu biển) chiếm tỷ lệ 40-50%; chi phí vận chuyển nội địa (Domestic Transport Costs) chiếm 10-15%; thủ tục hải quan và giấy tờ chiếm 5-8%; lưu kho và xử lý tại cảng chiếm 5 - 10%; quản lý chuỗi cung ứng và công nghệ chiếm 5-10%; đóng gói và bảo hiểm chiếm 5-7%: rủi ro và chi phí phát sinh chiếm 2-5%.

Trước nhiều trở ngại lớn đang cần những tác động thực tiễn để DN chế biến XK đồ gỗ kéo giảm chi phí, tăng hiệu quả chuỗi cung ứng và cải thiện năng lực cạnh tranh.
Ngoài vấn đề chi phí, ông Phương cũng chỉ ra một thách thức khác trong lĩnh vực thương mại điện tử xuyên biên giới đối với ngành gỗ Việt. Đó là cạnh tranh với các đối thủ quốc tế và quản lý kho vận xuyên biên giới đòi hỏi sự tuân thủ quy định của từng quốc gia.
Hoặc như việc cạnh tranh gay gắt từ những quốc gia có sự tương đồng về vị trí địa lý như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia…Điều này đòi hỏi các sản phẩm gỗ Việt Nam cần nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu mã và đặc biệt là có thể truy xuất nguồn gốc hợp pháp.
Bên cạnh đó, chính sách xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của các quốc gia lớn cũng là vấn đề trở ngại. Điển hình như Mỹ (thị trường XK quan trọng nhất của ngành gỗ Việt Nam, chiếm 50% tổng kim ngạch XK gỗ và sản phẩm gỗ hồi năm 2024) đang áp dụng thuế chống bán phá giá 46% đối với gỗ Việt Nam, yêu cầu chứng nhận nguồn gốc FSC (một loại chứng chỉ nhằm xác minh nguồn gốc gỗ) và truy xuất nguồn gốc qua Lacey Act, cuộc điều tra theo Điều 232 đối với gỗ và gỗ xẻ.
Hay như EU với các quy định FLEGT (giấy phép nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào EU) và FSC là bắt buộc đối với các nhà cung cấp gỗ. Chứng chỉ FSC yêu cầu bắt buộc từ năm 2025 để tiếp cận thị trường này. Rồi Quy định về chống phá rừng của EU (EUDR) có hiệu lực kể từ 31/12/2025.
Hoặc như Trung Quốc với chính sách xuất nhập khẩu gỗ bị siết chặt, yêu cầu xuất xứ rõ ràng và kiểm tra nghiêm ngặt về chất lượng gỗ. Nhật Bản thì ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm gỗ qua xử lý, yêu cầu chứng nhận phát triển bền vững và sử dụng gỗ hợp pháp. Còn Hàn Quốc cũng yêu cầu chứng nhận truy xuất nguồn gốc và đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng môi trường và an toàn sản phẩm.
Trước những chính sách như vậy, làm thế nào để các DN ngành gỗ thích ứng tốt với yêu cầu khắt khe của thị trường XK không hề là chuyện đơn giản.
Như với thị trường Mỹ, hầu hết các mặt hàng gỗ có giá trị kim ngạch XK cao hiện Việt Nam đang xuất vào thị trường này đều đang bị Chính phủ Hoa Kỳ điều tra theo Điều 232 của Đạo luật mở rộng thương mại của Chính phủ Hoa Kỳ.
Đơn cử hồi tháng 5/2025, Liên minh Công bằng thương mại về Gỗ dán cứng của Hoa Kỳ đã đệ đơn khởi kiện các DN sản xuất của Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia, trong đó đưa ra cáo buộc rằng các sản phẩm gỗ dán của Việt Nam nhận được trợ cấp từ chính phủ Việt Nam trước khi xuất vào Hoa Kỳ và được bán với mức giá dưới giá thành và điều này làm tổn hại tới các DN sản xuất tại Hoa Kỳ.
Đáng chú ý, các DN bị cáo buộc đã nhận trợ cấp không công bằng và bán sản phẩm dưới giá trị thị trường, gây ảnh hưởng tới ngành sản xuất trong nước. Mức thuế trừng phạt được đề xuất là: Trung Quốc 474,2%; Indonesia 202,8%; và Việt Nam lên tới 133,72%. Các mức thuế sơ bộ có thể được áp dụng từ quý 4/2025 nếu quy trình điều tra tiến triển đúng lộ trình.
Đó là chưa kể hoạt động XK các mặt hàng gỗ của Việt vào Mỹ tiềm ẩn một số bất ổn do Chính phủ Hoa Kỳ đang cân nhắc việc áp dụng mức thuế đối ứng 46% đối với các mặt hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ, trong đó có mặt hàng gỗ. Từ đó làm dấy lên lo ngại DN gỗ của Việt Nam có thể chịu thuế kép từ Hoa Kỳ vào cuối năm 2025.
Chờ những tác động thực tiễn
Trước nhiều thách thức, trở ngại như hiện tại, ông Nguyễn Chánh Phương nhấn mạnh chuỗi cung ứng gỗ cần tác động thực tiễn nhằm giúp DN kéo giảm chi phí logistics, tăng hiệu quả chuỗi cung ứng và cải thiện năng lực cạnh tranh.
Chẳng hạn như chuỗi cung ứng gỗ cần chuyển từ “gia công” sang “giá trị cao”. Vị Phó chủ tịch Hawa cho rằng các DN nên tái cấu trúc từ XK sản phẩm sơ chế thành nội thất hoàn chỉnh, thương hiệu riêng. Không chỉ vậy, các DN nên tăng tỷ trọng ODM (để chỉ các nhà sản xuất có khả năng thiết kế sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng)/OEM (là công ty sản xuất sản phẩm theo yêu cầu và thiết kế của đối tác, sau đó sản phẩm được bán dưới thương hiệu của đối tác đó), cũng như kiểm soát chuỗi từ nguyên liệu đến sản phẩm.
Hơn thế nữa, như khuyến nghị của ông Phương là ngành gỗ Việt cần xây dựng chuỗi liên kết vùng nguyên liệu – nhà máy – logistics. Cụ thể là tạo vùng nguyên liệu bền vững ở địa phương thông qua phối hợp giữa DN với địa phương. Đồng thời cần đầu tư cụm công nghiệp gỗ tập trung, tích hợp cả logistics, chế biến và bảo quản.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, để chuỗi cung ứng và logistics ngành gỗ không rơi vào thế bất lợi thì các DN ngành chế biến gỗ nên có tư duy bền vững, xem đây là “giấy thông hành” bắt buộc. Đơn cử như ESG (môi trường, xã hội, quản trị DN), phát thải CO2, chứng chỉ FSC không còn là tùy chọn, nếu như DN Việt không đáp ứng sẽ bị loại khỏi chuỗi toàn cầu.
Mặt khác, các DN trong ngành gỗ cũng nên tận dụng tối đa lợi thế mà mình đang có. Đó là việc chủ động nguồn nguyên liệu trong nước khi mà diện tích rừng trồng Việt Nam đạt 4,72 triệu ha (năm 2024), tăng 2,5% so với 2023. Sản lượng khai thác gỗ hợp pháp đạt khoảng 25 triệu m3/năm, đáp ứng khoảng 80% nhu cầu nguyên liệu chế biến.
Đó còn là lợi thế về chi phí sản xuất và nhân công. Mức lương bình quân ngành gỗ Việt Nam hiện vào khoảng 280 USD/tháng, thấp hơn Trung Quốc (khoảng 600 USD/tháng) và Thái Lan (khoảng 450 USD/tháng). Việt Nam thuộc nhóm quốc gia chi phí sản xuất thấp nhưng năng suất cao nhờ kỹ năng thủ công lâu đời.
Và không thể không nhắc đến lợi thế từ việc Việt Nam đã và đang tham gia 19 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Điều này sẽ mang lại lợi thế thuế quan, mở rộng cơ hội cho gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam. Chẳng hạn với FTA Việt Nam – EU (EVFTA) đòi hỏi các DN Việt cần tận dụng xuất xứ Việt Nam để tăng biên lợi nhuận 8–15% so với sản phẩm cùng loại từ Trung Quốc.