Lắng nghe người dân hiến kế: TP HCM: Đột phá quản trị cho siêu đô thị
TP HCM cần cuộc cách mạng quản trị liên vùng để cởi bỏ chiếc áo hạ tầng chật hẹp, xứng đáng với tầm vóc siêu đô thị
Hình thành từ việc hợp nhất TP HCM, tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, TP HCM (mới) đang khẳng định vị thế đầu tàu kinh tế nhưng cũng đối diện áp lực lớn về hạ tầng và quản trị.
Siêu đô thị - siêu thách thức
TP HCM hiện sở hữu diện tích 6.772,59 km2 với quy mô dân số 14.002.598 người. Năm 2024, quy mô kinh tế GRDP của thành phố đạt khoảng 1.716.581 tỉ đồng (giá so sánh năm 2010) và khoảng 2.715.782 tỉ đồng (giá hiện hành), tương đương 108,6 tỉ USD.
Với các chỉ số trên, TP HCM chiếm khoảng 23,6% tổng GDP toàn quốc, giữ vững vị trí số 1 cả nước; tiếp đến là Hà Nội (12,5%), Hải Phòng hợp nhất (5,66%) và Đồng Nai hợp nhất (hơn 5,4%).
Về chất lượng sống, thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt hơn 186 triệu đồng, đứng thứ 2 cả nước (sau Quảng Ninh) và vượt xa mức bình quân chung 102,9 triệu đồng.
Hàng loạt chỉ tiêu kinh tế khác của thành phố đều dẫn đầu cả nước, bao gồm: Thu nội địa (395.000 tỉ đồng), FDI đăng ký (57,6 tỉ USD), doanh thu bán buôn, bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng (924.230 tỉ đồng), tỉ lệ doanh nghiệp/1.000 dân (51 doanh nghiệp) và doanh thu xuất khẩu (42.427 triệu USD).

TP HCM cần cuộc cách mạng quản trị liên vùng để cởi bỏ chiếc áo hạ tầng chật hẹp. Ảnh: HOÀNG TRIỀU
Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là tỉ lệ thu nội địa/GRDP của thành phố chỉ đạt 15,8%, xếp thứ 3 - sau Hà Nội (29,6%) và Đà Nẵng (15,9%), dù vẫn cao hơn mức trung bình cả nước là 14,3%.
Bên cạnh đó, thành phố đối mặt thách thức về hạ tầng và kết nối. Trong bối cảnh toàn cầu hóa cùng những thách thức phức tạp về môi trường, xã hội, để duy trì vai trò đầu tàu và trở thành siêu đô thị xanh, thông minh, TP HCM buộc phải có chiến lược quản trị liên vùng hiệu quả.
Về giao thông, dù tuyến đường bộ cao tốc như TP HCM - Trung Lương - Mỹ Thuận, TP HCM - Long Thành - Dầu Giây, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 22... đã phát triển mạnh, song tình trạng ùn tắc tại khu vực trung tâm vẫn thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng sống.
Đối với kinh tế biển, thành phố sở hữu hệ thống cảng lớn như cảng Cái Mép - Thị Vải và cảng TP HCM. Dù vậy, áp lực cạnh tranh từ sự phát triển cảng biển của các khu vực lân cận như Tây Ninh đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về một cơ chế điều phối liên vùng tối ưu hơn.
Cùng với đó, TP HCM đang chịu áp lực lên hệ thống y tế, giáo dục. Là trung tâm đào tạo lớn nhất nước, TP HCM cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao chủ lực. Tuy nhiên, sự chênh lệch về hạ tầng giáo dục với các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Tây Ninh đòi hỏi thành phố phải đẩy mạnh các mô hình đào tạo liên kết, mở rộng phân hiệu để san sẻ gánh nặng.
Tương tự, trong lĩnh vực y tế, các bệnh viện đầu ngành như Chợ Rẫy, Nhi Đồng 1, 2, Từ Dũ... luôn trong tình trạng quá tải do lượng bệnh nhân lớn từ đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và miền Trung. Giải pháp phát triển bệnh viện vệ tinh kết nối với các tỉnh đang được triển khai nhưng cần đẩy nhanh tiến độ.
Ngoài ra, mục tiêu phát triển bền vững đang gặp thách thức lớn từ ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Dù đã có các dự án đô thị thông minh và năng lượng tái tạo, TP HCM cần một chiến lược đồng bộ hơn nữa với các địa phương trong vùng để thực sự trở thành một siêu đô thị xanh.
Đột phá từ tư duy liên kết vùng
Để khẳng định vai trò đầu tàu kinh tế - xã hội, TP HCM cần một cơ chế quản trị liên vùng thực chất, đồng bộ từ hạ tầng giao thông, nguồn nhân lực đến y tế và môi trường.
Một trong những yếu tố tiên quyết để phát triển TP HCM thành siêu đô thị vùng là tối ưu hóa kết nối với các tỉnh Đông Nam Bộ. Điều này đòi hỏi một chiến lược quản trị tổng thể, phá bỏ tư duy cục bộ địa phương.
Trước hết, thành phố cần khẩn trương xây dựng kế hoạch quản lý giao thông liên vùng, trọng tâm là các tuyến cao tốc và đường vành đai kết nối với Đồng Nai, Tây Ninh cùng các khu vực lân cận. Song song đó, hệ thống cảng biển và sân bay phải được kết nối mạch lạc với các khu công nghiệp, trung tâm thương mại để tạo đà phát triển logistics. Về giao thông nội đô, việc phát triển mạng lưới vận tải công cộng (xe buýt, tàu điện ngầm) là yêu cầu cấp bách. Các địa phương lân cận cũng cần có chiến lược phát triển đồng bộ, tạo thành mạng lưới xuyên suốt nhằm tiết kiệm chi phí và giải quyết bài toán ùn tắc.
Bên cạnh hạ tầng cứng, TP HCM cần sắm vai "nhạc trưởng" trong liên kết đào tạo nhân lực chất lượng cao. Các cơ sở giáo dục tại thành phố cần mở rộng hợp tác, xây dựng phân hiệu với các tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, khoa học. Chính quyền thành phố cũng cần có chính sách đặc thù thu hút nhân tài quốc tế vào các ngành mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, chip - bán dẫn để kiến tạo môi trường đổi mới sáng tạo, hấp dẫn nhà đầu tư chiến lược.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, mô hình bệnh viện vệ tinh cần được đẩy mạnh để giảm áp lực cho tuyến cuối. Việc chuyển giao kỹ thuật cho các tỉnh như Đồng Nai, Tây Ninh và đồng bằng sông Cửu Long sẽ giúp người dân tiếp cận dịch vụ chất lượng cao ngay tại chỗ. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin phải được xem là khâu đột phá thông qua hệ thống bệnh án điện tử dùng chung và nền tảng y tế số liên thông vùng.
Đối với vấn đề phát triển bền vững, TP HCM và vùng Đông Nam Bộ không thể tách rời trong chiến lược bảo vệ môi trường và an ninh nguồn nước. Một quy hoạch chung về năng lượng tái tạo, xử lý rác thải và công nghệ xanh trong các khu công nghiệp là điều bắt buộc để tránh tình trạng "đẩy" ô nhiễm từ địa phương này sang địa phương khác.
Chỉ khi các địa phương thực sự bắt tay hợp tác, phát huy lợi thế của nhau thông qua cơ chế quản trị liên vùng hiệu quả, TP HCM mới có thể trở thành siêu đô thị hiện đại, xanh, thông minh, xứng đáng với vị thế đầu tàu của cả nước.















