Lẫy lừng khoa bảng Bích La Đông
Không chỉ được mệnh danh là 'lò sinh quan, nôi sinh sĩ tử', làng Bích La Đông còn là đất địa linh nhân kiệt khi khoa bảng - công danh đều trọn vẹn.

Đình và khu vực các miếu thờ của làng Bích La Đông.
Làng Bích La Đông thuộc xã Triệu Đông (nay là xã Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị), từ xa xưa đã nổi danh là vùng đất học. Với hàng chục nhà khoa bảng danh tiếng, đời nào cũng xuất hiện anh hùng tuấn kiệt, Bích La Đông còn là quê hương của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đất thiêng xứ Quảng
Sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn ghi rằng, làng Bích La có nguồn gốc sơ khai là Hoa La, thuộc huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong. Làng Bích La được thành lập vào năm 1527, do vị tướng tên là Lê Mậu Doãn nhận lệnh triều Hậu Lê vào xứ Thuận Hóa khẩn hoang lập ra.
Lê Mậu Doãn là hậu duệ dòng họ Lê Mậu ở xã Hoa Duệ, tổng Mỹ Duệ (xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Ông được sử sách ghi chép là người tinh thông binh pháp, tính tình trung hậu.
Năm Lê Chiêu Tông lên ngôi (1522) cũng là năm Mạc Đăng Dung thâu tóm quyền lực, vì không muốn cộng tác với Mạc Đăng Dung nên Lê Mậu Doãn đã lĩnh mệnh vua Lê vào cai quản xứ Tân Bình - Thuận Hóa, vùng đất biên cương phía Nam giáp với Chiêm Thành chưa được khai phá.
Cùng đi có 14 bộ tướng (gồm các hộ Lê Mậu, Lê Cảnh, Lê Văn, Lê Bá, Lê Phước, Lê Đức, Dương Đình, Nguyễn Thọ, Lê Thế, Lê Trọng, Trần Hữu, Phan, Phạm Xuân, Hồ, Đặng) cùng gia đình, bạn bè thân thích. Dọc đường đi, đoàn còn chiêu thêm lưu dân đi theo lập nghiệp.
Năm 1527, Lê Mậu Doãn chọn vùng đất xứ Hà Dương phía Nam sông Thạch Hãn làm nơi khai khẩn, lập ngôi làng đầu tiên lấy tên là Hoa An. Theo dòng lịch sử, ngôi làng này ra đời 31 năm trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (đóng đô ở Dinh Cát Ái Tử - năm 1558). Khi chúa Nguyễn vào mở mang cơ nghiệp, Lê Mậu Doãn và các bộ tướng đã giúp chúa dựng nghiệp nên sau này ông được phong tước Doãn Lộc hầu, sau lại được sắc phong Dực bảo Trung hưng linh phò tôn thần.
Năm 1814 đời vua Gia Long, làng Hoa An đổi tên thành Hoa La. Năm 1842 thời vua Thiệu Trị, làng lấy tên là Bích La, phân vi tứ giáp: Đông, Trung, Nam, Hậu. Khoảng năm 1915 đời vua Duy Tân, giáp Đông lại tách xứ Hà Dương chia ra thành lập thêm giáp Thượng. Từ đây hình thành Bích La ngũ giáp, mỗi giáp đều giữ Bích La làm tên chung và hình thành các làng Bích La Đông, Bích La Trung, Bích La Nam, Bích La Hậu và Bích La Thượng.
Trong Bích La ngũ giáp, làng Bích La Đông nổi tiếng hơn cả, và được biết đến là ngôi làng hiếu học, có nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng. Tại khu miếu thờ nằm bên phải đình làng, phía trên cổng chính còn vẹn nguyên câu đối: Địa chung linh khí truyền thiên cổ/ Thế xuất anh tài diễn ức niên (Đất hun đúc khí thiêng toàn vẹn từ nghìn xưa/ Đời sinh hào kiệt khi nào cũng có).
Giải thích cho sự đỗ đạt của người Bích La Đông, dân gian có giai thoại kể rằng, do đình làng nằm trên lưng một con cù. Mỗi năm, con cù đều thức giấc 1 lần để kiểm tra con cháu học hành, ăn ở ra sao. Thế nhưng có một năm, con cù không thức dậy nên năm ấy làng gặp nhiều chuyện không may.
Sợ con cù ngủ quên, bô lão làng nghĩ ra một kế là hằng năm, vào rạng sáng mùng 3 Tết, tất cả dân chúng tập trung về đình làng họp chợ, đánh chiêng khua trống để đánh thức cù dậy. Từ đó, phiên chợ Bích La Đông được duy trì, chợ chỉ họp một lần từ 3 đến 6 giờ sáng mùng 3 Tết.

Trong hội làng, hoạt động thư pháp, chữ nghĩa luôn được người làng coi trọng.
Nối nhau đề tên bảng vàng
Địa linh sinh nhân kiệt, làng Bích La Đông nổi tiếng có nhiều người tài giỏi, quý hiển. Đặc biệt vào thời nhà Nguyễn, làng có nhiều người đỗ đại khoa, làm quan to trong triều. Sách “Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam” của tác giả Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh, tuy một số chỗ có thể chưa hoàn toàn chính xác, nhưng thống kê khá chi tiết.
Lê Hữu Hằng thi Hương khoa Tân Sửu, Thiệu Trị thứ 1 (1841), tại trường Thừa Thiên. Làm quan tới chức Tuần phủ, Hộ lý Tổng đốc Hải Yên, lãnh Thượng thư bộ Công. Lê Bá Nghị thi Hương khoa Canh Tuất, Tự Đức thứ 3 (1850), tại trường Thừa Thiên, làm quan tới chức Giáo thụ. Lê Thụy thi Hương khoa Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868), tại trường Thừa Thiên, đậu Tiến sĩ khoa Ất Hợi, Tự Đức thứ 28 (1875), năm 34 tuổi, làm Tuần phủ Thanh Hóa, sau về kinh giữ chức Tham tri bộ Hình.
Lê Đăng Lĩnh (sau đổi tên là Lê Đăng Trinh) thi Hương khoa Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870), tại trường Thừa Thiên, đậu Phó bảng khoa Ất Hợi, Tự Đức thứ 28 (1875), năm 26 tuổi, làm tới chức Tham tri bộ Binh, sung Quản lính thị vệ. Lê Hữu Tính thi Hương khoa Kỷ Mão, Tự Đức thứ 32 (1879), tại trường Thừa Thiên, làm Trước tác, lãnh Bang tá tỉnh vụ Quảng Trị. Lê Cảnh thi Hương khoa Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903), tại trường Thừa Thiên, đậu Cử nhân năm 23 tuổi, làm Hành tẩu bộ Học.
Ngày nay, tại khu miếu thờ của làng Bích La Đông có thờ hai vị Tiến sĩ là Lê Cảnh Diệu và Lê Cảnh Phiếm. Theo gia phả các dòng họ trong làng thì làng còn có nhiều người đỗ Tiến sĩ, chỉ tính riêng dòng họ Lê Văn của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, thì thời đó đã có 5 nhà khoa bảng danh tiếng: Tiến sĩ Lê Văn Nhượng đỗ khoa Đinh Dậu (1837), Tiến sĩ Lê Văn Chân đỗ khoa Tân Sửu (1841), Tiến sĩ Lê Văn Nhiếp đỗ khoa Mậu Tý (Đồng Khánh 3). Khoa cuối cùng của triều Nguyễn có ông Lê Văn Tặng - bác ruột của đồng chí Lê Duẩn đỗ Phó bảng và ông Lê Văn Lương đỗ Tiến sĩ.
Họ Lê ở Bích La Đông có 4 chi: Lê Văn, Lê Bá, Lê Cảnh, Lê Mậu. Thời Lê trung hưng, tướng Lê Cảnh Sắc cùng các tướng lĩnh trong họ vào trấn nhậm Thuận Hóa. Khi đến địa phận làng Bích La Đông, thấy địa thế thuận lợi, lại đúng lúc trong đoàn có phụ nữ sắp sinh nên họ Lê quyết định lập nghiệp lại làng Bích La Đông.
Sau này, dòng họ luôn xuất hiện những người tài năng, phò tá đắc lực cho nhà Nguyễn. Trong đó phải kể đến Lê Trinh (1850 - 1909) là Thượng thư Lễ bộ và Công bộ. Ông thuộc dòng dõi họ Lê Cảnh, là con trưởng của Lê Cảnh Chính - Binh bộ viên ngoại lang, Trung phụng đại phu, Đô sát viện hữu phó đô ngự sử.
Năm 20 tuổi ông thi Hương khoa Canh Ngọ, Tự Đức năm thứ 23 (1870) đỗ Giải nguyên. Khi lên năm 25 tuổi, ông thi Hội khoa năm Ất Hợi, Tự Đức năm thứ 28 (1875) đỗ Phó bảng. Từ đó, ông đã ra làm quan, trải qua 6 triều vua từ Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái đến Duy Tân.
Tương truyền, khi phụng mệnh đi sứ đến nhà Thanh, Lê Trinh thể hiện tài năng khiến vua quan Trung Hoa kính nể. Nhà Thanh đưa ra mấy bài khó trong đề thi Tiến sĩ để thử tài, đều được Lê Trinh giải đáp thấu đáo, thể hiện kiến thức uyên thâm. Hoàng đế nhà Thanh đã ban biểu Tiến sĩ cùng áo mũ và danh hiệu “Lưỡng quốc tham mưu” cho Lê Trinh.
Ông là vị quan thanh liêm, chính trực, có công giúp nhà chí sĩ Phan Chu Trinh thoát án tử hình dưới thời Pháp. Trên lĩnh vực ngoại giao ông là người có kiến thức uyên bác, trình bày những giải pháp canh tân đất nước rất khả thi nhằm chống lại nguy cơ xâm lược của các nước phương Tây. Lê Trinh có tác phẩm “Bích Phong thi thảo” tập hợp các bài thơ đề từ, xướng họa và một số bài nói lên nỗi lòng của tác giả trước vận mệnh đất nước, gồm 50 bài thơ và hơn 100 câu đối bằng chữ Hán mang giá trị văn học và lịch sử.

Các dòng họ làng Bích La Đông rất chú trọng đến công tác khuyến học, khuyến tài.
Trung trinh như người Bích La Đông
Không chỉ là vùng đất học danh tiếng, người dân làng Bích La Đông cũng nổi tiếng trung quân, ái quốc. Trong đó, nổi bật nhất là Lê Đăng Doanh là một trong những người đỗ đạt sớm đầu triều Nguyễn, và được biết tới là người văn võ toàn tài, từng làm Chánh chủ khảo nhiều kỳ thi Hương, từng cầm quân đánh dẹp quân Xiêm ở Nam Kỳ.
Lê Đăng Doanh dự khoa thi 1796 do Nguyễn Ánh mở và trúng cách, được bổ làm Thị học viện Cống sĩ. Năm Gia Long thứ 4 (1805) được thăng làm Tri bộ thành Gia Định. Đến thời Minh Mạng ông được thăng Tham biện Hà Tiên, rồi trở về kinh thăng Thiêm sự bộ Lại, sung chức toản tu “Liệt thánh thực lục”. Khi về giữ chức Bố Chính sứ Quảng Trị thấy dân tình đói kém ông đã dâng sớ xin vua miễn thuế cho dân và được vua chập nhận (năm thứ 17 triều Minh Mạng).
Ông làm quan trải qua 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; làm Thượng thư qua các bộ: Lại, Công, Hình, thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần. Năm Tự Đức nguyên niên (1848), ông bị bệnh và mất, được truy tặng hàm Thiếu sư Văn minh điện Đại học sĩ và được vua Tự Đức ban tặng: “Nhất lão nghi hình thiên hạ tắc/ Tứ triều thạc phụ đế vương tôn”.
Cũng từ làng Bích La sau này có nhiều người tham gia phong trào Cần Vương và các phong trào chống Pháp như Lê Mậu Hiến đứng đầu phong trào đòi dân sinh dân chủ, giảm sưu thuế cho dân. Năm 1882, nhiều người làng tham gia xây dựng sơn phòng ở vùng Cam Lộ theo chủ trương của Tôn Thất Thuyết để chuẩn bị chống Pháp.
Điển hình trong phong trào chống Pháp có Chánh vệ úy Lê Văn Thống, Đề đốc Lê Văn Tặng cùng với Suất đội Phan Cư - người làng Nại Cửu Triệu Đông đem quân đánh chiếm thành Quảng Trị.

Tác phẩm thơ văn của nhà khoa bảng Lê Trinh.
Sống và lớn lên trên mảnh đất của cha ông có truyền thống yêu nước nên ngay từ nhỏ, cậu học trò Lê Văn Nhuận (tên khai sinh của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn) đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, thoát ly từ tuổi hai mươi và năm 1930 trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó trở thành người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đảm đương các chức vụ cao nhất của Đảng...
Bích La Đông còn có hàng chục giáo sư, tiến sĩ đầu ngành làm việc trong nước và quốc tế, như Tiến sĩ toán học Lê Bá Long, Tiến sĩ sinh học Lê Thị Diệu Muội (con gái cố Tổng Bí thư Lê Duẩn), Tiến sĩ hóa học Nguyễn Từ, danh họa Lê Bá Đảng…
Làng Bích La Đông cũng bảo tồn khá nguyên vẹn các giá trị di sản truyền thống, trong đó nổi bật là ngôi đình làng và hệ thống miếu thờ. Tương truyền sau khi lập làng, dân làng đã chọn vùng đất phong thủy đẹp để xây dựng ngôi đình và miếu thờ. Nguyên xưa ngôi đình được xây dựng rất khang trang và có quy mô lớn nhất nhì trong vùng. Đó là một ngôi nhà rường ba gian hai chái mái lợp ngói liệt.
Khu miếu thờ nằm phía bên ngoài ngôi đình, trong một khuôn viên có cổng, thành bao bọc cả thảy gồm có 11 ngôi miếu: Miếu thờ dân yên vật lợi, miếu thờ Thần Nông, miếu thờ Sấm Sét, miếu thờ Quốc an tôn thần, miếu thờ Cao Các, miếu thờ Thành hoàng, miếu thờ Ngài Khai khẩn, miếu thờ Tiến sĩ Cảnh Phiến bá, miếu thờ Bà Chúa, miếu thờ Thập Tứ hộ, miếu thờ Cảnh Diệu bá.
Là ngôi làng có nền văn hiến đậm đặc nhất dải đất miền Trung, làng Bích La Đông luôn nuôi dưỡng truyền thống hiếu học, xem việc học như một nghề và trở thành niềm tự hào của dân làng. Cũng chính truyền thống hiếu học ấy đã tạo ra những khác biệt của Bích La Đông, khiến sách “Ô châu cận lục” có lời bình rằng: “Câu Nhi có người anh tuấn, Hoa La nổi tiếng văn học”. Là vùng đất thiêng, đời đời sản sinh ra nhân tài cho đất nước nên câu ví lưu truyền dân gian “lò sinh quan, nôi sinh sĩ tử” dành cho Bích La Đông cũng vô cùng xứng đáng.
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/lay-lung-khoa-bang-bich-la-dong-post722948.html