Lấy ý kiến dự thảo nghị định về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh
Với mục đích góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc, hoàn thiện thể chế, pháp luật về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh; củng cố, nâng cao tiềm lực an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia trong các quan hệ quốc tế, Bộ Công an đã chủ trì xây dựng và hoàn thành dự thảo Nghị định về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh để lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Cần thiết xây dựng nghị định
Tại dự thảo tờ trình dự thảo nghị định, Bộ Công an cho biết đề xuất xây dựng nghị định dựa trên cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn. Theo đó, về cơ sở chính trị, nhận thức rõ được vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, thời gian qua, Đảng và nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác này. Kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh là quan điểm nhất quán trong đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng.
Bên cạnh đó, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, bảo vệ an ninh gắn với phát triển kinh tế. Về cơ sở pháp lý, việc đề xuất xây dựng nghị định của Chính phủ về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh là để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp và các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; bảo đảm việc xây dựng, phát triển nền kinh tế - xã hội phải gắn liền với nội dung bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Về cơ sở thực tiễn, Bộ Công an cho biết, thực tế khi triển khai các quy định của pháp luật liên quan đến việc kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh đã phát sinh một số vấn đề chưa được pháp luật quy định. Trong thực tế, việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh còn gặp một số khó khăn, vướng mắc.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, theo Bộ Công an, việc xây dựng, ban hành nghị định của Chính phủ về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh là cần thiết.

Theo dự thảo, Bộ Công an sẽ tham gia ý kiến, thẩm định dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại đảo và xã, phường biên giới... (Ảnh minh họa)
Những nội dung cơ bản của dự thảo nghị định
Dự thảo nghị định gồm 29 điều, 3 chương. Về nội dung cơ bản, dự thảo Nghị định quy định cụ thể biện pháp để thực hiện chính sách kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh đã được quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thể chế hóa các chính sách đã được Chính phủ thông qua hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định, gồm: Chính sách 1: Kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội trong lấy ý kiến, thẩm định, đánh giá tác động về an ninh quốc gia đối với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế - xã hội có liên quan đến an ninh; Chính sách 2: Kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm; Chính sách 3: Kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội trong sử dụng tài nguyên, cung cấp sản phẩm, dịch vụ đặc thù của lực lượng CAND; Chính sách 4: Kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh đối với các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, hải đảo; Chính sách 5: Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành để tăng cường hiệu quả trong kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh.
Theo đó, kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh được chia thành 2 nhóm quy định như sau:
Nhóm kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội (Điều 9, 10 về kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội trong quy hoạch, chiến lược, kế hoạch, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến an ninh và Điều 19 kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội trong sản xuất các sản phẩm công nghiệp an ninh đặc thù, lưỡng dụng).
Nhóm kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh (từ Điều 11 đến Điều 18 kết hợp an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với an ninh trong chiến lược, kế hoạch, đề án, dự án kinh tế - xã hội liên quan đến an ninh; trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ; nông nghiệp, môi trường; đầu tư, quản lý kinh tế, tài chính, tiền tệ; xây dựng; khoa học và công nghệ; giáo dục và nội vụ; xây dựng, hoàn thiện pháp luật; lĩnh vực khác và Điều 20 về kết hợp kinh tế - xã hội với an ninh tại các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, hải đảo).
Trong đó, quy định cụ thể quy hoạch, chiến lược, kế hoạch, đề án dự án phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến an ninh, nội dung, biện pháp kết hợp, việc thực hiện kết hợp và phân cấp thực hiện kết hợp. Việc thực hiện kết hợp thông qua tham gia ý kiến, thẩm định, đánh giá tác động về an ninh được quy định trên cơ sở thủ tục hành chính trong hệ thống pháp luật hiện hành, quy định cụ thể các bước thực hiện trong CAND, trách nhiệm của các bộ, ngành, không phát sinh thủ tục hành chính và chi phí của người dân, doanh nghiệp, giúp việc tham gia ý kiến, thẩm định, đánh giá tác động về an ninh minh bạch, đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện. Quy định về phân cấp thực hiện đã bảo đảm phù hợp với chủ trương phân cấp, phân quyền trong giai đoạn hiện nay. Các quy định không đặt ra vấn đề bình đẳng giới.
Về phân cấp tham gia ý kiến, thẩm định, đánh giá tác động về an ninh, dự thảo nghị định quy định như sau:
Bộ Công an tham gia thẩm định: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; các quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch tỉnh; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia dài hạn, trung hạn và hằng năm; kế hoạch đầu tư công quốc gia trung hạn và hằng năm; đề án phát triển kinh tế - xã hội áp dụng trên địa bàn toàn quốc, liên tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến an ninh; dự án liên quan đến an ninh quy định tại Điều 7 Nghị định này là dự án đầu tư công gồm dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A (theo tiêu chí quy định tại Luật Đầu tư công) có liên quan đến an ninh; dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại Luật Đầu tư năm 2020 (được sửa đổi, bổ sung năm 2024) có liên quan đến an ninh quy định tại Điều 7 Nghị định này; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh sân gôn (golf); dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh theo quy định tại Luật Đầu tư năm 2020 (được sửa đổi, bổ sung năm 2024) có liên quan đến an ninh quy định tại Điều 7 Nghị định này gồm:
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại đảo và xã, phường biên giới; xã, phường ven biển; khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh.
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng, không hạ tầng, dịch vụ vệ tinh, dịch vụ cung cấp nội dung truyền thông trực tuyến, trồng rừng, xuất bản, báo chí.
Công an cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham gia thẩm định: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm cấp tỉnh; Đề án phát triển kinh tế - xã hội áp dụng trên địa bàn cấp tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến an ninh; dự án liên quan đến an ninh quy định tại Điều 7 Nghị định này là dự án đầu tư công gồm dự án thuộc nhóm B, dự án nhóm C theo quy định của Luật Đầu tư công có liên quan đến an ninh; Dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh theo quy định tại Luật Đầu tư năm 2020 (được sửa đổi, bổ sung năm 2024) gồm dự án có liên quan đến an ninh quy định tại Điều 7 Nghị định này gồm:
- Dự án đầu tư có đề nghị nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu hoặc nhận chuyển nhượng, dự án đầu tư có đề nghị cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, trừ trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân không thuộc diện phải có văn bản chấp thuận của UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị trong các trường hợp: dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất dưới 50 ha và có quy mô dân số dưới 15.000 người tại khu vực đô thị; dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất dưới 100 ha và có quy mô dân số dưới 10.000 người tại khu vực không phải là đô thị; dự án đầu tư không phân biệt quy mô diện tích đất, dân số thuộc khu vực hạn chế phát triển hoặc nội đô lịch sử (được xác định trong đồ án quy hoạch đô thị) của đô thị loại đặc biệt.