Lịch sử thuyền chiến Việt Nam: Góc nhìn mới từ 'Thần long kích thủy'

Không chỉ là câu chuyện về kỹ thuật đóng tàu hay những trận thủy chiến lẫy lừng, 'Thần long kích thủy' còn cho thấy tư duy hàng hải tiến bộ và khả năng thích ứng, sáng tạo vượt thời đại của người Việt.

Trong Thần long kích thủy, tác giả Đông Nguyễn bằng nguồn tư liệu phong phú và cách tiếp cận liên ngành đã cung cấp những thông tin thú vị về hải quân nước ta từ cổ chí kim, trong đó có nhiều điểm mới thú vị.

Dòng chảy lịch sử thuyền chiến Việt Nam

Với đường bờ biển dài, hệ thống sông ngòi chằng chịt và là trung tâm trên con đường giao thương giữa nhiều nền văn minh lớn, nước ta từ lâu đã phát triển thương thuyền, hải thuyền, chiến thuyền… thậm chí có lúc vươn lên ảnh hưởng đến các đế chế khác trong việc đóng thuyền và thiết kế thuyền.

Từ trước Công nguyên, Việt Nam đã là cửa ngõ trọng yếu trên tuyến thương mại biển giữa hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ (rộng hơn là các nền văn minh ven Ấn Độ Dương), nên có thể tin là đã học hỏi và tiếp thu rất nhiều tri thức trong quá trình này, nếu không muốn nói chính là "môi trường" mà những trao đổi công nghệ hàng hải diễn ra.

Đơn cử vào thế kỷ 9, khi Trương Chu cải tiến thuyền chiến thành thuyền mông đồng với 32 mái chèo để đi nhanh hơn, có các máy nỏ để chiến đấu từ xa, có thể quay đầu bằng cách đảo đầu với đuôi… thì nhiều sử liệu cho thấy ông đã tiếp thu kỹ thuật của các nước Nam Á và Đông Nam Á.

Bên cạnh đó, thuyền buồm mành vốn cũng là phát minh của Đông Nam Á khi nhà Tống chủ động khuếch trương thương mại hàng hải đến đây và Ấn Độ Dương nhằm bù đắp cho Con đường Tơ lụa trên bộ đi qua Trung Á đã bị các nước Tây Hạ, Liêu… khống chế.

Với nước ta, theo chiều thời gian, tác giả Đông Nguyễn đã tái hiện sự phát triển theo từng triều đại phong kiến, dựa trên nhiều tư liệu giá trị như các sử liệu bằng chữ Hán - Nôm, cộng với so sánh, đối chiếu văn vật các nước xung quanh. Bên cạnh đó còn là những ghi chép, tài liệu… của các nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu được viết từ cuối thế kỷ 19.

Tác giả cho biết từ buổi sớm nhất của công cuộc dựng và giữ nước, thuyền đã hiện diện. Ngay trên trống đồng thời Đông Sơn, đó là những chiếc độc mộc, sau đó trở thành thuyền có đuôi và đầu cong vút, cho thấy chúng được tạo ra bằng cách ghép ván chứ không còn được chế tạo một cách giản đơn.

Thuyền có đuôi và mũi thuyền gần giống nhau, ngẩng lên cao vút. Trong ảnh là mô hình thuyền thời Nguyễn ở Bảo tàng Dân tộc học. Ảnh: Đông Nguyễn

Thuyền có đuôi và mũi thuyền gần giống nhau, ngẩng lên cao vút. Trong ảnh là mô hình thuyền thời Nguyễn ở Bảo tàng Dân tộc học. Ảnh: Đông Nguyễn

Sau đó đối tượng này dần được cải tiến, từ khi Ngô Quyền chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đến thời Tiền Lê với kỹ thuật đóng chiến hạm có quy mô lớn. Thậm chí Lê Hoàn còn đồng ý cho các thổ hào Đại Cồ Việt đem hơn trăm thuyền cướp người cũng như lương thực ở nước Tống… Điều này cho thấy dưới thời Lê Hoàn, năng lực hàng hải của người Việt ta ở thế kỉ 10 là rất đáng kể.

Triều Lý nối tiếp ý thức xây dựng thủy quân của nhà Tiền Lê bằng việc tạo ra nhiều thuyền và chiến hạm mới. Đây cũng là giai đoạn nghiên cứu, phát minh hải thuyền rộn ràng, khi người Tống bắt đầu triển khai các loại khí giới đặt trên thuyền như máy bắn đá, hỏa khí... còn ở phía Nam, có nhiều khả năng nhờ học hỏi từ Champa mà Lý Thường Kiệt đã có thể dẫn thuyền đi ngược gió, khiến quan quân Tống bất ngờ, lơi là phòng bị.

Điều này cho thấy những tri thức về đường thủy bắt đầu luân chuyển và được học hỏi lẫn nhau, từ việc khâu thuyền bằng dây thực vật thay vì dùng đinh sắt cho đến xảm trét (công đoạn bịt kín điểm tiếp giáp giữa các ván thuyền) bằng sợi thực vật…

Cuộc đối đầu với quân Mông - Nguyên cùng sự kiện vua Champa Chế Bồng Nga trúng đạn dưới quyền tướng Trần Khát Chân và tử trận năm 1390 cho thấy ở giai đoạn này, nước ta đã có những chiến thuyền quy mô lớn, bên cạnh hỏa súng đã khá chính xác và có tầm xa để thực hiện pháo kích từ cự ly cách hàng trăm mét.

Tốc độ và sự chính xác này tiếp tục giữ vững đến thế kỷ 17. Ở giai đoạn này, các chúa Nguyễn bắt đầu triển khai thêm các hạm đội thuyền đáy nông do địa hình đòi hỏi. Và khi lãnh thổ được mở rộng về phía Nam, người Việt tiếp tục tiếp xúc, tiếp thu công nghệ thuyền bè của cả người Chăm lẫn người Mã Lai.

Sau đó, giai đoạn đối đầu giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn có thể coi là thời kì "bùng nổ" của những thiết kế chiến hạm lớn. Bởi trong khi phía Tây Sơn tham khảo các dạng pháo thuyền Quảng Đông mà hải tặc ưa chuộng, thì Nguyễn Ánh chọn sao chép các thiết kế phương Tây, du nhập nhiều công nghệ như bọc đáy thuyền bằng các lá đồng chống hàu, hà ăn gỗ… Đây cũng là thời kỳ mà nước ta đứng trước cửa ngõ trở thành cường quốc về ngành đóng thuyền, tuy vậy sau đó lại không giữ được.

Thuyền Quảng Nam được vẽ trong tập sách Đường thuyền chi đồ của Nhật Bản thế kỷ 17, 18 có bảy cửa bắn pháo mỗi bên, cho thấy sự phát triển của kỹ thuật chế tạo thuyền chiến Việt Nam. Ảnh: Đông Nguyễn

Những nhận định mới mẻ

Bên cạnh sự phát triển theo từng thời kỳ, tác giả cũng đưa ra nhiều nhận định thú vị, cho thấy một góc nhìn khác so với chính sử mà ta thường biết.

Chẳng hạn trong chiến công oanh liệt đánh quân Mông – Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương, nhiều người cho rằng chiến lược bãi cọc khiến đoàn thuyền của quân xâm lăng mắc cạn chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại.

Tuy vậy Đông Nguyễn cho biết sách lược nói trên hàm chứa khá nhiều rủi ro, như sẽ ra sao nếu thủy quân địch không đi qua khúc sông vào đúng lúc bãi cọc phát huy tác dụng? Sẽ ra sao nếu thuyền chiến của ta không đủ mạnh để kìm chân giặc chờ nước triều xuống?

Bộ tem “Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288”. Ảnh: Báo Lao động

Bộ tem “Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288”. Ảnh: Báo Lao động

Vì vậy cách Trần Hưng Đạo tiến hành dàn chiến hạm ngang sông để trong trường hợp hải đội quân Nguyên vượt qua được bẫy trước khi triều xuống thì vẫn phải đối mặt với một bức tường thành bằng thuyền nên được ghi nhận là một chiến lược thông minh, toàn diện.

Và bởi ở giai đoạn này phương pháp để “phá thế trận” nói trên chủ yếu là xung lê - ủi thẳng vào thuyền đối phương nhằm mục đích khiến cho chúng lật – do đó để có thể ngăn cản thuyền của hải đội quân Nguyên vốn trang bị đủ đầy, thì hẳn nhà Trần phải có những thuyền cao to, chí ít ngang với thuyền Nguyên. Điều đó không giống với tưởng tượng của nhiều người rằng quân Đại Việt chỉ gồm những xuồng thấp bé so với những chiến hạm lớn của phía đối thủ.

Bên cạnh đó, tác giả còn cho thấy sự tiếp nối trong việc phát minh và sáng tạo thuyền chiến như việc giữ lại bộ phận xiếm (hay lĩa) gắn ở phần mũi, giúp thuyền không bị dạt ngang khi buồm ngược gió. Nó từng được nhìn thấy từ thời Đông Sơn và chỉ có thuyền nước ta sở hữu bộ phận này.

Ghe với đáy đan bằng cật tre. Trong ảnh là mô hình thuyền thời Nguyễn ở Bảo tàng Dân tộc học. Ảnh: Đông Nguyễn

Ghe với đáy đan bằng cật tre. Trong ảnh là mô hình thuyền thời Nguyễn ở Bảo tàng Dân tộc học. Ảnh: Đông Nguyễn

Một phát minh đầy sáng tạo khác của người Việt là các ghe nang - loại thuyền biển có đáy đan bằng nan tre như thúng, phần trên là gỗ - không thể nhìn thấy ở cả Trung Hoa lẫn Đông Nam Á.

Nói về khởi nguồn của sáng tạo này, thì phần thúng được dùng để chống con hà ăn mòn, trong khi địa hình sông suối ở khu vực miền Trung đa phần là cồn cát, các rạn san hô, các nền đáy cứng… nên kết cấu linh hoạt của thúng sẽ phù hợp với quá trình vận hành. Việc thay thế lớp thúng cũng khá dễ dàng.

Những sáng tạo này và việc không ngừng học hỏi thuyền chiến phương Tây đã giúp hình thành vị thế đáng gờm của hải quân nước ta vào đầu thế kỷ 19. Dẫn sử liệu, tác giả cho thấy tri huyện Uông Trọng Dương từng được đại thần nhà Thanh Lâm Tắc Từ trao cho 8 hình vẽ các loại thuyền chiến mà triều đại mình rất nên học hỏi, trong đó có đến một nửa là các loại của nước Nam ta.

Tuy vậy, tiềm năng trở thành cường quốc hải quân sau đó tan biến khi ngành đóng tàu bản địa Đại Nam không duy trì được vị thế. Thậm chí, các hạn chế ngày càng rõ ràng khi liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng xâm lược vào năm 1858.

Nói về lý do, tác giả cho thấy đó là tổng hòa của nhiều yếu tố như chính sách, tài chính, bối cảnh địa chính trị... Nhưng riêng về mặt kỹ thuật, điều đáng chú ý là dưới thời Minh Mạng, nguồn gỗ phù hợp để đóng thuyền đi biển lớn là rất khan hiếm.

Sách do NXB Kim Đồng ấn hành. Ảnh: NXB

Sách do NXB Kim Đồng ấn hành. Ảnh: NXB

Ngoài ra, sau khi đánh bại quân Tây Sơn thì mối đe dọa chủ yếu từ phía biển đối với nhà Nguyễn chỉ là hải tặc, do đó tốc độ nhanh nhẹn của thuyền bè được đặt lên hàng đầu để tuần tra khắp dải bờ biển và truy bắt các toán cướp thay vì nghiên cứu để nâng cao năng lực chiến đấu...

Từ những điều trên có thể thấy rằng Thần long kích thủy không chỉ là một khảo cứu về lịch sử thuyền chiến, mà còn cho thấy người Việt ta từng sở hữu tư duy biển sâu sắc và giàu sáng tạo đến như thế nào. Từ đó, công trình của Đông Nguyễn gợi mở khả năng tái định vị lịch sử hải quân nước ta trong bản đồ hàng hải khu vực, đồng thời khơi dậy tinh thần nghiên cứu, khát vọng biển cả của thời đại này.

Minh Anh

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/lich-su-thuyen-chien-viet-nam-goc-nhin-moi-tu-than-long-kich-thuy-50562.html