Lịch sử tỉnh Bạc Liêu - từ 'xóm nghèo' ven biển trở thành vùng đất trù phú
Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu ở Đồng bằng Sông Cửu Long ngày càng trù phú do phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự 'chung sức, đồng lòng' xây dựng quê hương.

Diêm dân Bạc Liêu thu hoạch muối. (Ảnh: Chanh Đa/TTXVN)
Có thể khi nhắc đến Bạc Liêu, bạn sẽ tự hỏi tên gọi này có nghĩa là gì.
Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Bạc Liêu, danh xưng “Bạc Liêu” đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo - có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là “Bạc” và Léo phát âm là “Liêu.”
Một giả thuyết khác cho rằng: Pô là bót, đồn. Liêu là Lào (Ai Lao) theo tiếng Khơme, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào.
Còn người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên gọi vùng đất này là Phêcheri - chaume (đánh cá và cỏ tranh). Ngoài ra còn một số giả thuyết khác.
Dù xuất xứ tên gọi của tỉnh là gì, trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu vẫn ngày càng trù phú do phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự “chung sức, đồng lòng” dựng xây quê hương của ba dân tộc Kinh, Khmer và Hoa.
Vị trí địa lý
Bạc Liêu là tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực Nam của Tổ quốc Việt Nam.
Tỉnh Bạc Liêu nằm ở Tây Nam Bộ, cách Thành phố Hồ Chí Minh 280km về phía Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang; phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng; phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông.

Bản đồ hành chính tỉnh Bạc Liêu. (Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bạc Liêu)
Theo kết quả điều tra dân số giữa kỳ năm 2024, tỉnh Bạc Liêu có gần 930.000 người. Cụ thể, tại thời điểm ngày 1/4/2024, tỉnh có 929.439 người.
Lịch sử hình thành
Năm 1680, Mạc Cửu, một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu.
Năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu là Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập dinh trại đồn trú tại Phương Thành, nhân dân quy tụ ngày càng đông.
Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất phương Nam thuộc về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang, Trấn Di được bãi bỏ.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia Định cai quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long), Hà Tiên.
Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ Hà Tiên đến Cà Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc Trăng và Bạc Liêu tính đến cửa biển Gành Hào.
Ngày 5/1/1867, thực dân Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ. Đến ngày 5/6/1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 24 khu tham biện (inspection - có người dịch là khu thanh tra) do các viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm.
Năm 1877, Pháp điều chỉnh Nam Kỳ còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18/12/1882, Pháp cắt ba tổng Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy của đại lý (Dlégation) Cà Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và hai tổng Thạnh Hòa, Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu). Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ, lúc đầu có hai đại lý Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu.
Ngày 20/12/1899, toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1/1/1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn Nam Kỳ.
Năm 1904, quận Vĩnh Lợi cắt một phần đất phía bắc nhập thêm vào quận Vĩnh Châu. Diện tích của tỉnh Bạc Liêu lúc này là 740.000ha.
Năm 1918, chính quyền thực dân Pháp cắt một phần đất phía nam quận Vĩnh Lợi và một phần đất phía bắc quận Cà Mau thành lập quận Giá Rai.
Ngày 25/10/1955, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143/NV phân định lại địa phận hành chính các tỉnh miền Nam, sáp nhập các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu vào Sóc Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Toàn bộ vùng đất quận Cà Mau lập thành tỉnh An Xuyên.
Ngày 8/9/1964, Ngụy quyền Sài Gòn ký Sắc lệnh số 254/NV tái lập tỉnh Bạc Liêu gồm các quận: Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Phước Long (Rạch Giá). Địa phận này tồn tại cho đến ngày 30/4/1975.

Những ngôi nhà khang trang của người dân tại đồng Chó Ngáp (Bạc Liêu). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng Chó Ngáp (cánh đồng rộng hàng nghìn hecta trải dài trên hai xã Ninh Thạnh Lợi và Ninh Thạnh Lợi A, huyện Hồng Dân) được chọn làm Khu căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu. (Ảnh: TTXVN phát)
Về phía chính quyền cách mạng, việc phân chia địa giới hành chính tỉnh Bạc Liêu trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ khác hẳn chính quyền Sài Gòn. Năm 1947, quận Hồng Dân thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú về quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc Trăng, đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển.
Ngày 13/11/1948, cắt hai làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu. Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc Liêu. Làng Châu Thới hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới.
Năm 1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Đồng thời, tỉnh Bạc Liêu tiếp nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá.
Sau Hiệp định Geneva, năm 1955, huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc Liêu, huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh Lợi và thị xã Bạc Liêu được tái lập.
Năm 1957, Liên Tỉnh ủy miền Tây chia các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh ủy Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi-Vĩnh Châu.
Năm 1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh ủy Sóc Trăng quyết định tách huyện Vĩnh Châu khỏi huyện Vĩnh Lợi-Vĩnh Châu, thành lập huyện Vĩnh Châu.
Tháng 11/1973, Khu ủy Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm bốn đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu.
Vào đầu năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam hợp nhất hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu-Cà Mau, đến gần giữa năm 1976 tỉnh Bạc Liêu-Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải.
Ngày 1/1/1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập lần thứ hai và giữ nguyên cho đến ngày nay.
Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã quyết định hợp nhất tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau, lấy tên là tỉnh Cà Mau, trung tâm chính trị-hành chính đặt tại tỉnh Cà Mau hiện nay.
Văn hóa của người Bạc Liêu
Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Bạc Liêu, về mặt lịch sử, vùng đất Bạc Liêu mới hình thành trên 200 năm. Do điều kiện đất đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Dân cư không hình thành từ “lũy tre làng,” “cha truyền con nối.”
Dân cư Bạc Liêu đa số là dân “xiêu tán,” nghèo khổ “tha phương cầu thực”. Họ định cư rải rác trên các gò đất cao, trên các bờ sông, các kinh xáng.
Người Kinh, người Khmer, người Hoa đã đan xen nhau, luôn tương trợ, đoàn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích “làm ăn lớn.”
Phong cách ứng xử người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phác, bộc trực, dám phản kháng mạnh mẽ trước bất công xã hội.
Ở Bạc Liêu, có ba dòng văn hóa đan xen nhau trong quá trình hội nhập, phát triển, đó là: Văn hóa Kinh, văn hóa Khmer và văn hóa người Hoa.
Hằng năm trên vùng đất Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội.

Nông dân Bạc Liêu thu hoạch dưa vàng vụ Tết, đầu năm 2025. (Ảnh: Tuấn Kiệt/TTXVN)
Người Kinh có lễ hội cúng đình, thờ thần hoàng bổn cảnh có công với nước được triều đình nhà Nguyễn Sắc phong. Ngoài ra còn có đại lễ Kỳ Yên còn gọi là lễ thượng điền giữa tháng Năm âm lịch, lễ thắp miếu còn gọi là lễ hạ điền vào giữa tháng 12 âm lịch.
Đồng bào Khmer có lễ hội vào năm mới (Chol-Chnam-Thmây) vào giữa tháng Tư dương lịch, lễ hội chào mặt trăng (Oóc-Om-Boóc) vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, lễ hội Đôn-ta nhằm thực hiện việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật.
Đồng bào Hoa có lễ cúng Thanh Minh vào tháng Ba âm lịch, lễ thí giàng vào tháng Bảy âm lịch.
Trong giao tiếp, lớp người trung niên giữa Kinh và Khơ-me hay kết thân nhau làm “ní” (người cùng tuổi). Trai, gái Kinh và Hoa thường gọi nhau là “hia,” “chế” thay cho từ anh, chị.
Về văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu, có bản vọng cổ của bác Sáu Lầu, chuyện vui bác Ba Phi, nói thơ điệu Bạc Liêu của ông Thái Đắc Hàn, vè của ông Bửu Trượng.
Tính cách người dân Bạc Liêu dưới thời Pháp thuộc in đậm tính cách lưu dân người Việt “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ; đủ đạo đức làm dân mà ít thuộc kinh truyện.”
Trước đây một số ngươi giàu ở Bạc Liêu có quan niệm “lấy táu đong lúa chứ không ai lấy táu đong chữ.” Điển hình là Ba Huy con ông Hội đồng Trần Trinh Trạch, một thời tiêu xài “xả láng” để đồng bào cả nước mỉa mai sự xa xỉ đó bằng tên gọi “công tử Bạc Liêu.”
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, vùng đất Bạc Liêu trở thành căn cứ kháng chiến của Nam bộ. Trường học mọc lên đều khắp. Bộ mặt văn hóa khác hẳn xưa.
Tuy vậy Bạc Liêu vẫn chưa có những công trình, những tác phẩm nghệ thuật tương xứng với bề dày lịch sử của địa phương./.