Liên kết vùng ĐBSCL cần ba điều kiện tiên quyết để bứt phá

Liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long muốn hiệu quả phải có thể chế điều phối đủ thẩm quyền, dữ liệu và quy hoạch vùng đầy đủ, cùng cơ chế lợi ích kinh tế hài hòa, rõ ràng.

Đoạn đầu tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giao với quốc lộ 91, thuộc phường Vĩnh Tế, tỉnh An Giang. Ảnh: Thanh Sang-TTXVN

Đoạn đầu tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giao với quốc lộ 91, thuộc phường Vĩnh Tế, tỉnh An Giang. Ảnh: Thanh Sang-TTXVN

Mặc dù, việc liên kết vùng là quan trọng để ứng phó với thách thức mới, nhưng để liên kết vùng hiệu quả, cần 3 điều kiện tiên quyết: Có thể chế điều phối vùng đủ thẩm quyền; cần có dữ liệu, quy hoạch và bản đồ vùng; cơ chế lợi ích kinh tế phải hài hòa và rõ ràng. Đó là đề xuất của Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long tại hội thảo khoa học Thực trạng và giải pháp phát triển liên kết nội vùng ở vùng kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, do Trường Đại học ngoại thương phối hợp Học viện Chính trị khu vực IV tổ chức sáng 3/12.

Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp nhận định, Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định được những đột phá trong phát triển vùng về giao thông, hạ tầng logistics, các nguồn lực phát triển quan trọng của vùng. Từ năm 2022 đến nay, vùng đã chuyển động rõ về phát triển giao thông với trục dọc, đường ngang, đường cao tốc, cầu vượt sông lớn.

Sau khi Nghị quyết số 13 ra đời đã thúc đẩy về cơ chế điều phối liên tỉnh, nội vùng và liên vùng. Nhiều chương trình hành động của Chính phủ và hàng loạt những kế hoạch, công trình, dự án mang tính liên kết vùng được triển khai rất cụ thể như đường cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, đường cao tốc Bạc Liêu - Cà Mau,…

Ngoài ra, Nghị quyết số 13 còn cụ thể hóa nhiều vấn đề trong giai đoạn mới, như: Hạ tầng giao thông, logistics và sự chuyển đổi của nền nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nếu như trước đây, vùng chủ yếu phát triển sản xuất nông nghiệp với kinh nghiệm truyền thống thì hiện đang chuyển dịch sang một cái nền kinh tế nông nghiệp. Người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long không phải là những người sản xuất lúa, nuôi tôm, nuôi cá thông thường mà đang là những doanh nhân nông nghiệp.

Theo Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp, hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long đang yếu nhất là thiếu cơ chế, quỹ vùng và không có nguồn ngân sách vùng. Vùng phát triển phụ thuộc vào Trung ương và địa phương, trong khi địa phương luôn ưu tiên cho địa phương mình, dẫn đến rất khó khăn nếu không có cơ chế liên kết vùng. Do đó, cần có thể chế điều phối vùng đủ thẩm quyền. Nhận định liên kết đòi hỏi phải có dữ liệu quy hoạch vùng, Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp đánh giá dữ liệu vùng vẫn còn bất cập. Mặc dù đã thành lập Trung tâm Dữ liệu vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng thông tin vẫn còn phân tán, khó khăn trong chia sẻ.

Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp và thủy sản lớn nhất cả nước, đóng vai trò then chốt trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và cung cấp nguồn lực chiến lược cho xuất khẩu. Tuy nhiên, vùng kinh tế này đang đối mặt với những thách thức từ biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, thiếu hụt nguồn nước, phân mảnh không gian phát triển và hạn chế nguồn lực trong liên kết nội vùng.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thu Hương, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, Nghị quyết số 13 nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và thúc đẩy liên kết vùng như một chiến lược. Định hướng này hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Phát triển dựa trên nội lực và liên kết vùng bền vững tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Cùng với đó, bối cảnh hiện nay cũng đặt ra nhiệm vụ đòi hỏi sự đồng bộ, hài hòa giữa các vùng kinh tế ở cả 4 trụ cột: Hội nhập quốc tế; phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; đổi mới thể chế.

Các chuyên gia, nhà khoa học cùng tập trung thảo luận các nội dung quan trọng như: Cơ sở lí luận và kinh nghiệm thế giới về phát triển kinh tế nội vùng; thuận lợi, khó khăn và giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế nội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn 2045; vai trò của Cần Thơ trong phát triển liên kết vùng kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới; liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long: góc nhìn triển khai thực tế của doanh nghiệp.

Nghiên cứu, chia sẻ và khuyến nghị chính sách tại hội thảo là những đóng góp quan trọng cho công tác hoạch định chính sách cũng như triển khai Đề án liên kết phát triển vùng tại Việt Nam thời gian tới.

Thu Hiền/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/lien-ket-vung-dbscl-can-ba-dieu-kien-tien-quyet-de-but-pha/398731.html