Liên kết vùng và hạ tầng công nghiệp trong mô hình phát triển mới

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, chuyên gia kinh tế - giảng viên Trường đại học Nguyễn Tất Thành, việc sắp xếp lại đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo tinh thần Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV đánh dấu một bước ngoặt thể chế quan trọng của đất nước.

Sản xuất linh kiện điện tử tại khu công nghiệp – một trong những ngành mũi nhọn của tổ hợp công nghiệp vùng.

Sản xuất linh kiện điện tử tại khu công nghiệp – một trong những ngành mũi nhọn của tổ hợp công nghiệp vùng.

Việc giảm 29 đơn vị hành chính cấp tỉnh, bỏ cấp huyện, giảm hơn 7.200 xã và tổ chức lại hệ thống chính trị, hành chính theo mô hình tinh gọn, hai cấp hoạt động thông suốt không chỉ nhằm nâng cao hiệu lực quản trị mà còn mở ra một không gian phát triển liên vùng, gắn kết đô thị - công nghiệp - hạ tầng, hướng tới mô hình phát triển tích hợp và hiệu quả hơn.

Tăng cường liên kết vùng và hoàn thiện cơ chế điều phối vùng

Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền cho rằng, sau bốn thập kỷ đổi mới, hạ tầng kinh tế-xã hội của Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc. Hàng nghìn km cao tốc, hệ thống cảng biển, sân bay, trung tâm logistics, hạ tầng số và trung tâm dữ liệu quốc gia đã được hình thành, tạo nền tảng cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng và thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại.

Tuy nhiên, thực trạng phân mảnh không gian phát triển giữa các tỉnh, sự đầu tư cục bộ và thiếu phối hợp trong quy hoạch công nghiệp, đô thị, giao thông vẫn là những điểm nghẽn lớn, làm giảm hiệu quả khai thác hạ tầng và năng suất vùng. Bước vào giai đoạn 2026-2030 đi kèm việc sáp nhập tỉnh thành các vùng hành chính, kinh tế quy mô lớn, ông nhấn mạnh rằng, tái cấu trúc liên kết vùng và phát triển hạ tầng công nghiệp liên hoàn cần được coi là một trụ cột chiến lược của mô hình tăng trưởng tự chủ.

Về yêu cầu thể chế, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền cho rằng, cần trước tiên thiết lập một cơ chế điều phối vùng có thẩm quyền thực chất. Khi chính quyền địa phương được kiện toàn chỉ còn hai cấp (tỉnh và cơ sở), vai trò điều phối vùng càng phải được thể chế hóa bằng một thiết chế pháp lý thống nhất.

Theo phân tích của ông, việc sớm ban hành Luật Phát triển vùng và liên kết vùng là rất cần thiết nhằm tạo khuôn khổ cho phân quyền, phân cấp về quy hoạch, đầu tư, tài chính và dữ liệu giữa các địa phương trong cùng một vùng kinh tế. Một cơ quan điều phối vùng đủ mạnh cần có quyền phê duyệt các dự án hạ tầng liên vùng, điều hòa ngân sách đầu tư công và quản lý cơ chế hợp tác công-tư (PPP) trong phạm vi vùng, từ đó tránh trùng lặp dự án, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả đầu tư.

Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền cũng lưu ý rằng, liên kết vùng phải được thiết kế dựa trên các trục hạ tầng chiến lược. Mỗi vùng sau sáp nhập cần xác định một “trục phát triển chủ đạo”, có thể là hành lang công nghiệp, hành lang kinh tế ven biển hoặc hành lang logistics, để từ đó tập trung nguồn lực đầu tư và hình thành các cụm công nghiệp liên vùng, khu công nghiệp xanh, khu logistics tổng hợp và hệ thống đô thị vệ tinh.

Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền đánh giá cao định hướng trong Dự thảo Văn kiện khi nhấn mạnh phát triển các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiện đại, liên kết vùng và liên vùng, với các ngành mũi nhọn như cơ khí chế tạo, vật liệu mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp chip và tự động hóa - nền tảng để các vùng phát triển đồng bộ, tránh dẫm chân nhau và chia sẻ lợi thế theo chuỗi giá trị.

Phát triển hạ tầng công nghiệp liên hoàn gắn với phát triển bền vững

 Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền.

Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền.

Liên quan đến nguồn lực, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền cho rằng, cần đẩy mạnh hợp tác công-tư (PPP) trong phát triển hạ tầng công nghiệp và đô thị vùng. Với quy mô vùng mở rộng, nhu cầu đầu tư vào giao thông, năng lượng, nước sạch, xử lý chất thải, hạ tầng số và logistics sẽ rất lớn. Nhà nước vì vậy cần chuyển từ vai trò “đầu tư trực tiếp” sang vai trò “dẫn dắt và chia sẻ rủi ro”, tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài tham gia mạnh hơn vào các dự án hạ tầng theo cơ chế PPP linh hoạt.

Việc hình thành Quỹ phát triển hạ tầng vùng hoạt động theo nguyên tắc quay vòng, sử dụng được nhiều nguồn vốn từ ngân sách, trái phiếu công trình, vốn tư nhân đến tài chính xanh là giải pháp quan trọng cho các dự án có sức lan tỏa vùng.

Đặc biệt, dữ liệu, năng lượng và logistics cần được coi là ba loại “hạ tầng thế hệ mới”, từ đó thiết kế chính sách PPP phù hợp cho từng loại hình như trung tâm dữ liệu dùng chung, hệ thống lưới điện thông minh hay các hành lang vận tải tích hợp đường bộ, đường sắt và cảng cạn.

Về không gian công nghiệp, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền nhận định việc sáp nhập tỉnh tạo điều kiện quy hoạch lại hệ thống khu và cụm công nghiệp trên quy mô rộng hơn, hướng tới hình thành các vùng công nghiệp tích hợp liên tỉnh với chuỗi giá trị hoàn chỉnh từ sản xuất, chế biến, logistics, nghiên cứu-phát triển (R&D) đến dịch vụ hỗ trợ.

Theo ông, mô hình chính quyền 2 cấp sẽ rút ngắn quy trình phê duyệt đầu tư, đồng thời tăng tính chủ động của địa phương trong xúc tiến và quản lý dự án. Trong đó, hạ tầng dữ liệu vùng, kết nối giữa các sở, ngành và doanh nghiệp, cần được xây dựng như “trục chủ đạo” của mô hình quản lý mới nhằm bảo đảm minh bạch, chia sẻ thông tin và giám sát theo thời gian thực.

Ông cũng nhấn mạnh rằng, phát triển hạ tầng vùng phải gắn liền với quy hoạch phát triển bền vững. Các dự án hạ tầng không chỉ được đánh giá về hiệu quả kinh tế mà còn phải xem xét tác động xã hội, môi trường và văn hóa. Trong bối cảnh Việt Nam bước vào thời kỳ “chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng”, mọi kế hoạch phát triển hạ tầng vùng cần tích hợp tiêu chuẩn xanh, phát thải thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu. Hợp tác công-tư trong phát triển hạ tầng xanh như điện gió, năng lượng mặt trời, vận tải sạch, tái chế nước và rác thải sẽ góp phần tạo ra cực tăng trưởng mới đồng thời thể hiện cam kết phát triển bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền khẳng định rằng sáp nhập tỉnh và tổ chức lại chính quyền 2 cấp không chỉ là cải cách hành chính mà còn là tiền đề để tái cấu trúc không gian phát triển quốc gia. Khi cải cách thể chế được gắn với liên kết vùng và hợp tác công-tư trong phát triển hạ tầng, Việt Nam có thể hình thành các vùng phát triển tích hợp, công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa đồng bộ, tiến vào giai đoạn tăng trưởng năng suất cao, tự chủ chiến lược và hội nhập sâu rộng. Đây cũng chính là tinh thần lớn mà Dự thảo Báo cáo Chính trị hướng tới: “Kiến tạo thể chế hiện đại, thúc đẩy liên kết vùng, huy động mọi nguồn lực phát triển hạ tầng, đưa Việt Nam tiến mạnh, vững chắc trong kỷ nguyên tự chủ và sáng tạo.”

Khánh Lan-Minh Phương

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/lien-ket-vung-va-ha-tang-cong-nghiep-trong-mo-hinh-phat-trien-moi-post923344.html