Lỗ hổng pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm do AI tạo ra
Theo các chuyên gia, luật VN chưa có quy định về tác phẩm do AI tham gia tạo ra, về việc khai thác dữ liệu có bản quyền để huấn luyện AI hay trách nhiệm pháp lý với sản phẩm AI vi phạm... gây ảnh hưởng đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Hôm nay (27-6), Trường ĐH Luật TP.HCM tổ chức hội thảo cấp quốc gia "Khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam".

Ban chủ tọa hội thảo. Ảnh: YC
Hội thảo góp ý khung pháp lý về sở hữu trí tuệ
Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS Trần Việt Dũng (Phó hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM) cho rằng sau gần 20 năm thi hành, Luật Sở hữu trí tuệ đã chứng minh vai trò then chốt trong hệ thống pháp luật Việt Nam (VN) về khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, thực tiễn vận hành cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
Hội thảo hôm nay được kỳ vọng sẽ là một diễn đàn học thuật uy tín, nơi các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và các chủ thể liên quan bàn luận về các cơ chế, chính sách thí điểm đặc thù, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về sở hữu trí tuệ.

PGS.TS Trần Việt Dũng (Phó hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM) phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: UL
AI có phải là tác giả?
Tại hội thảo, sinh viên Nguyễn Thị Kim Hoàng (Trường ĐH Luật TP.HCM) thay mặt nhóm tác giả trình bày tham luận liên quan về AI. Theo đó, pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam (VN) hiện chưa có quy định cụ thể điều chỉnh đối với nội dung do AI tạo ra.
Hiện pháp luật chỉ công nhận hai nhóm chủ thể được hưởng quyền tác giả. Đó là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, tức cá nhân có hoạt động sáng tạo mang tính chủ quan và chủ sở hữu quyền tác giả theo các trường hợp được chuyển giao, thỏa thuận, giao kết hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật (chẳng hạn như tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ công vụ hoặc hợp đồng lao động).
AI không thuộc bất kỳ nhóm chủ thể nào, căn cứ xuất phát từ yếu tố “người” trong quy định pháp luật. AI không thể là “người” có năng lực hành vi dân sự để trực tiếp sáng tạo một cách có ý thức pháp luật, cũng không thể là chủ sở hữu quyền tác giả vì không có năng lực sở hữu hoặc ký kết hợp đồng.
Vì vậy, các nội dung do AI tự động sinh ra nếu không có sự can thiệp sáng tạo thực sự từ con người sẽ không thể phát sinh quyền tác giả theo pháp luật VN hiện hành. Đến thời điểm hiện nay, Al không được công nhận là chủ thể pháp luật (không có năng lực pháp luật dân sự, cũng không có năng lực hành vi dân sự), do đó AI không thể là tác giả về mặt pháp lý.
Theo đại diện nhóm tác giả, những nội dung do AI tạo ra bao gồm cả văn bản, hình ảnh, âm thanh... nếu không có sự can thiệp sáng tạo đáng kể từ con người thì không thể được bảo hộ quyền tác giả theo Luật Sở hữu trí tuệ VN. Thực tiễn này đặt ra nhiều vướng mắc, nhất là trong các trường hợp AI tái tạo hoặc mô phỏng lại tác phẩm đã được bảo hộ, dẫn đến nguy cơ xâm phạm quyền tác giả.

Sinh viên Nguyễn Thị Kim Hoàng (Trường ĐH Luật TP.HCM) trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: YC
Tham dự tại hội thảo, TS Nguyễn Thái Cường (phụ trách Viện Luật So sánh, Trường ĐH Luật TP.HCM) trao đổi với PV rằng sự phát triển nhanh chóng của các hệ thống AI đã mở ra kỷ nguyên mới cho ngành công nghiệp sáng tạo từ văn bản, tranh ảnh, âm nhạc đến phần mềm.
AI có thể tạo ra nội dung chỉ từ vài dòng hướng dẫn, làm tăng năng suất và giảm chi phí. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra câu hỏi: AI thực sự sáng tạo hay chỉ “đạo văn” một cách trá hình? Và nếu pháp luật không kịp thời phản ứng, những lỗ hổng hiện tại có thể phá vỡ niềm tin vào hệ thống bảo hộ quyền tác giả, làm suy yếu động lực sáng tạo và công bằng trong nền kinh tế tri thức.
Theo ông Cường, Luật Sở hữu trí tuệ VN (2005, sửa đổi 2022) định nghĩa tác giả là người tự nhiên trực tiếp sáng tạo tác phẩm. Chưa có quy định về tác phẩm do AI tham gia tạo ra, việc khai thác dữ liệu có bản quyền để huấn luyện AI hay trách nhiệm pháp lý với sản phẩm AI vi phạm.
Luật Việt Nam quy định tác giả chỉ có thể là người tự nhiên. Khi người dùng nhập lệnh cho AI, sản phẩm được sinh ra từ mô hình AI, người dùng không trực tiếp vẽ. Vì vậy, AI không phải là chủ thể pháp luật. Điều này dẫn đến hệ quả, sản phẩm AI khó đủ điều kiện được công nhận bản quyền, dẫn đến khoảng trống pháp lý khiến quyền khai thác, chuyển giao và bảo vệ pháp lý trở nên bất khả thi.
Cạnh đó, theo TS Cường, một vấn đề đặt ra nữa là dữ liệu huấn luyện AI có sao chép không phép không? Bởi AI cần khối lượng dữ liệu khổng lồ để “học,” thường thu thập từ internet chứa nhiều tác phẩm có bản quyền mà không xin phép. Có thể là tái tạo nguyên bản hoặc gần giống nội dung gốc. Điều này vi phạm quyền sao chép, quyền phái sinh.
Ông Cường cho rằng về trách nhiệm pháp lý cho đầu ra vi phạm, ngay cả khi việc huấn luyện được coi là hợp pháp, AI vẫn có thể tạo ra sản phẩm vi phạm như sao chép nguyên văn, tái hiện phong cách nhận diện. Tuy nhiên, hiện tại không rõ ai chịu trách nhiệm là người nhập lệnh, nhà phát triển hay nhà cung cấp nền tảng AI?
"Luật Việt Nam bảo vệ mạnh mẽ quyền nhân thân (gồm quyền ghi tên và toàn vẹn tác phẩm). AI có thể tạo biến thể bóp méo tác phẩm gốc, chế giễu hoặc khiêu dâm hóa tác phẩm truyền thống. Điều này, vi phạm danh dự, uy tín tác giả gốc. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định điều chỉnh tình huống AI biến dạng nội dung này", ông Cường nói.
Nói về giải pháp, TS Cường cho rằng hệ thống pháp luật Hoa Kỳ loại trừ tác phẩm do AI tự động tạo ra khỏi phạm vi bảo hộ nhưng công nhận nếu có đóng góp sáng tạo của con người. Tức bảo hộ “tác phẩm do máy tính tạo” với thời hạn 50 năm; quyền thuộc về người tổ chức, sắp xếp. Việt Nam có thể tham khảo những cách tiếp cận này nhưng cần điều chỉnh phù hợp thực tiễn địa phương.
Góp vốn bằng tài sản trí tuệ
Tại hội thảo, ThS Lê Bảo Khanh (Trường ĐH RMIT Việt Nam) cho rằng luật pháp VN hiện hành cho phép sử dụng quyền tài sản (không phải quyền nhân thân) phát sinh từ tài sản trí tuệ (TSTT) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm thế chấp.
Tuy nhiên, việc thực hiện trên thực tế vẫn còn nhiều hạn chế và chưa phổ biến. Các thách thức chính bao gồm: khó khăn trong việc định giá TSTT do thị trường chưa phát triển và thiếu các phương pháp tiêu chuẩn, sự do dự từ các tổ chức tài chính do lo ngại rủi ro và thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực này, cũng như những hạn chế trong việc thực thi quyền SHTT.
Về góp vốn bằng TSTT, theo ThS Khanh, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cho phép góp vốn bằng quyền SHTT vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của TSTT, có những vấn đề pháp lý cần đặt ra như loại TSTT nào có thể được dùng để góp vốn, trong trường hợp giá trị TSTT bị khấu hao qua thời gian thì doanh nghiệp có cần đăng ký giảm vốn điều lệ không; các hệ quả pháp lý phát sinh khi hết thời hạn bảo hộ quyền SHTT là tài sản góp vốn…