Loạt ký sự giải phóng Trường Sa: Bài 3 - Những 'Yết Kiêu' xuất quỷ nhập thần

QĐND Online – Dẫu chưa bao giờ tác chiến đánh đảo xa, chỉ với hơn 150 "người nhái" Trung đoàn Đặc công nước Hải quân 126 (nay là lữ đoàn) làm nòng cốt trong số 250 người xuất quân đã làm nên chiến công lịch sử và hiếm có. Chỉ trong 20 ngày, đổ bộ và giải phóng 5 đảo quan trọng nhất thuộc quần đảo Trường Sa gồm Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa. Họ thật sự là những Yết Kiêu của thế kỷ XX.

Tại sao trong số 250 người đi giải phóng Trường Sa, Quân ủy Trung ương và Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại chọn tới 150 người là đặc công nước?

Nói về vấn đề này, ngay những cựu chiến binh đoàn tàu không số, cũng là những con rái cả của biển, dũng mãnh chẳng kém đặc công như Đại tá Nguyễn Văn Đức ở bài báo trước cũng phải ngợi khen: Trong giải phóng Trường Sa, công lớn thuộc về những “người nhái” 126. Họ có nhiều tố chất khác thường: Bơi, lặn rất giỏi, phản xạ rất nhanh, bản lĩnh rất “lỳ”. Họ có thể xuất quỷ nhập thần và còn thả trôi hàng giờ trên biển chờ thời khắc nổ súng!”.

Thiếu tướng Mai Năng, trung đoàn trưởng đầu tiên, người anh cả của đặc công nước đã nhiều lần trò chuyện với chúng tôi lúc ông còn sống, cũng kể rất nhiều vì sự lựa chọn của lịch sử đối với nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Điều đó hoàn toàn bất ngờ không chỉ với những chiến sĩ cầm súng mà còn với chính ông, người chỉ huy cao nhất của trung đoàn lúc bấy giờ.

Vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, ta chủ trương xây dựng lực lượng đặc công nước ban đầu chỉ với mục tiêu nghiên cứu cách đánh địch dưới nước mà đánh tàu địch trên biển là cơ bản. Ông Mai Năng được chọn là người đại đội trưởng đầu tiên gieo hạt giống với 57 chiến sĩ. Mãi đến ngày 2 tháng 1 năm 1975, Thường vụ Quân chủng Hải quân ra nghị quyết chấn chỉnh lực lượng một số đơn vị, Đoàn 126 được phát triển lên thành Trung đoàn 126.

“Đầu năm 1975, tôi là Đoàn trưởng Đoàn đặc công Hải quân 126, chúng tôi đang ém quân ở Hải Phòng chờ lệnh tiến về Sài Gòn. Phải nói rằng khi ấy trong tâm tưởng mỗi người lính chúng tôi thì mục tiêu là được tham gia đoàn quân tiến về Sài Gòn, thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng thống nhất đất nước. Cuối tháng 3-1975, tôi bất ngờ nhận được mật lệnh: Lập tức chuyển quân vào Đà Nẵng” – Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại.

Bộ đội Đặc công Hải quân trên Quần đảo Trường Sa tháng 4-1975. Ảnh: Khắc Xuể - Báo QĐND.

Bộ đội Đặc công Hải quân trên Quần đảo Trường Sa tháng 4-1975. Ảnh: Khắc Xuể - Báo QĐND.

Thật là sự trùng lặp khó tin. Ngày 25-3, đúng ngày Bộ Chính trị ra nghị quyết giải phóng các đảo trên biển Đông, trung đoàn trưởng Mai Năng nhận lệnh trực tiếp chỉ huy 170 cán bộ, chiến sĩ vào chiến đấu ở chiến trường Khu 5.

Họ vào đến Đà Nẵng vừa giải phóng, được giao nhiệm vụ vừa tiếp quản các quân cảng, căn cứ hải quân của Ngụy, vừa tiếp tục chiến đấu. Ngày 11-4-1975, ông Mai Năng nhận nhiệm vụ lịch sử: “Tổng chỉ huy” 250 cán bộ, chiến sĩ xuống tàu tham gia giải phóng Trường Sa; trong đó có 150 chiến sĩ trung đoàn 126, nòng cốt là lực lượng Đội 1 đang làm nhiệm vụ bảo vệ một số căn cứ ở bán đảo Sơn Trà.

Mặc dù đã chỉ huy cán bộ, chiến sĩ 126 và trực tiếp chiến đấu và chiến thắng hàng trăm trận đánh nhưng trước nhiệm vụ quan trọng giải phóng Trường Sa, ông Mai Năng vẫn hết sức lo lắng, trăn trở. Ông trao đổi với đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh Quân chủng Hải quân:

- Anh em từng đánh tàu chiến, cầu tàu, cầu cảng… nhưng lần đầu tiên được giao đánh căn cứ trên đảo giữa biển khơi xa khi chưa thông thạo địa hình sẽ gặp nhiều khó khăn.

Phó tư lệnh Hoàng Hữu Thái hỏi: “Liệu có đánh được không?”.

Sau vài giây suy nghĩ, đồng chí Mai Năng quả quyết: “Được. Nhưng phải có chiến thuật mới, đó là vừa trinh sát, vừa tấn công hỏa lực. Với 3 tàu "không số" và 250 cán bộ, chiến sĩ, không thể đồng loạt tấn công các đảo, phải thực hiện phương án đánh chiếm từng đảo”.

Theo các tài liệu sau này, Trường Sa có hơn 100 đảo lớn nhỏ và bãi san hô ngầm nhưng vào thời kỳ cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ chỉ có 11 đảo có người. 5/11 đảo do quân ngụy đóng giữ, gồm: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa có tổng quân địch khoảng hơn 160 tên.

Thực tế cho thấy phương án mà ông Mai Năng đề xuất hoàn toàn chuẩn xác. Trong tiền lệ các cuộc chiến tranh biển đảo, có lẽ cũng chưa từng có chiến dịch nào tương quan mỏng đến vậy, 250 đánh 163!

Về phân công đội hình, trung đoàn trưởng Mai Năng giao: Phân đội 1 (Đội 1 Đặc công) và một tổ hỏa lực thuộc Tiểu đoàn 471 (Quân khu 5) do Đội trưởng Đội 1 Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy xuống Tàu 673, Phân đội 2 do đồng chí Đỗ Viết Cường, Đội phó Đội 1 chỉ huy xuống Tàu 674; Phân đội 3 do đồng chí Minh, cán bộ tham mưu Đoàn 126 chỉ huy và toàn bộ ban chỉ huy lực lượng giải phóng đảo do ông Mai Năng chỉ huy xuống Tàu 675.

Nhớ về trận đánh năm ấy, Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Ngọc Quế, nguyên Đoàn trưởng Đoàn Đặc công Hải quân 126-người trực tiếp chỉ huy Đội 1 giải phóng đảo Song Tử Tây vẫn bồi hồi xúc động:

Đảo Song Tử Tây cách Đà Nẵng 480 hải lý. Trước đây, nhờ những lần chở vũ khí cho chiến trường, các thủy thủ Đoàn 125 thường xuyên qua lại vùng biển này nên đã giúp họ nhận biết đảo không mấy khó khăn. Song khó khăn lớn là phần đông anh em Đội 1 Đặc công chưa quen hành quân trên biển dài ngày, sóng to, gió lớn, nên đều bị say sóng, giảm sút sức khỏe. Cái khó nữa là anh em quen tác chiến trên sông biển: đánh tàu, đánh cảng; phải mắt thấy, tai nghe, tay sờ, chân đến mới có thể tổ chức chiến đấu được. Còn đánh các căn cứ trên đảo thì đây là lần đầu tiên. Đánh khi chưa nhìn thấy mục tiêu thì càng chưa thực hiện bao giờ. Song mọi người đều chung một ý chí là quyết tâm thực hiện tinh thần chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Thần tốc thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa, xa mấy cũng đi, khó mấy cũng đánh, đã đến là đánh, đánh quyết tâm thắng”.

Ba ngày đêm lênh đênh trên mặt biển, giấu quân trong những khoang hàng “tàu cá” 125, bộ đội ngồi sát nhau như “xếp cá” để tránh trinh sát máy bay địch. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đặc công Hải quân phải chịu nóng, mệt, say sóng không ăn uống gì được. Đại đội trưởng Quế cũng bị “sóng đánh” cho mệt nhoài, khi sang tàu trung đoàn trưởng hội ý, vừa bước vào buồng chỉ huy, đồng chí Quế đã nằm xoải ra giường. Thấy vậy, ông Mai Năng hỏi vui:

- Cậu đã “nhai cơm nuôi cá” (nghĩa là nôn) chưa?

- Dạ! Chỉ nhức đầu thôi ạ - anh Quế đáp.

Thấy anh em có phần lo lắng, trung đoàn trưởng Mai Năng, vỗ vai anh Quế động viên: “Mấy ngày liền, sóng quần cho anh em mệt mỏi rồi, tới nơi phải hành động ngay, khó khăn nhiều càng đòi hỏi người chỉ huy suy nghĩ, tính toán, tổ chức cho chặt chẽ, dự kiến tình huống cho hết để bất cứ hoàn cảnh nào cũng giành chủ động”.

“Nghe vậy, tôi báo cáo phương án chiến đấu với đồng chí Mai Năng, đồng chí rất hài lòng với những dự kiến và dặn dò: Chú động viên anh em phát huy truyền thống đơn vị anh hùng, tập trung chiến đấu giành thắng lợi. Nhớ phải kiểm tra chu đáo trước khi đổ bộ” – Đại tá Nguyễn Ngọc Quế kể.

Trở về tàu nơi các chiến sĩ đang nằm nghỉ, Nguyễn Ngọc Quế gọi anh em dậy quán triệt nhiệm vụ:

- Giờ G sắp tới, các phân đội cho anh em kiểm tra lại lần cuối cùng chuẩn bị hành động!

Đang say sóng mệt nhoài nhưng nghe anh Quế ra lệnh dứt khoát, cả khoang tàu bỗng bừng dậy, nhộn nhịp khẩn trương. Trước mắt các chiến sĩ, đảo Song Tử Tây như một sợi chỉ hiện lên ở phía chân trời.

Trung tá Đào Mạnh Hồng (khi đi giải phóng đảo ông Hồng tên là Đào Mạnh Hống), nguyên cán bộ Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 kể lại: “Tôi từ lúc lên tàu đến lúc xuống xuồng cao su vẫn còn say lả. Nhưng khi nhận nhiệm vụ, thả quân đổ bộ vào đảo thì tỉnh như sáo. 1 giờ ngày 14-4, Tàu 673 tắt đèn tiến sát đảo. Chỉ huy tàu là người có kinh nghiệm đi biển, khôn khéo điều khiển tàu tìm vị trí có lợi nhất để đổ bộ, trước đó mấy tiếng, địch từng bắn pháo hiệu xua đuổi”.

Những chiếc xuồng trên Tàu 673 được thả xuống, các tổ chiến đấu bám sát nhau xuống xuồng như những con rái cá, các chiến sĩ đặc công hải quân nhanh nhẹn trườn trên sóng dữ. Đích của họ là những cây dừa, cây bàng quả vuông, mỏm cát nhỏ xíu nổi lên trên đảo. Sóng to, nước chảy xiết, một vài tổ bị sóng đánh lật xuồng. Anh em dồn hết sức mình bơi vào đảo. Theo ông Hồng, họ phải bơi 3 tiếng mới vào tới bờ. Các mũi đột kích vừa bám được đảo đã triển khai áp sát mục tiêu. Các hỏa lực do Đại đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy khẩn trương chiếm lĩnh trận địa.

Vài tên địch đang canh gác trên đảo bấm đèn pin lập lòe đi soi chim thấy khả nghi chúng liền bắn mấy loạt vu vơ. Bị lộ rồi chăng? Trước mắt anh, chiếc cột đèn bằng trụ thép thời bọn lính Pháp dựng lên như chiếc thập ác. Anh nhìn rõ hai dãy nhà mái tôn giữa đảo và căn hầm chỉ huy nổi lên phía tây cạnh hàng dừa 54 cây cao hơn 4m. Thấy địch không có hành động gì tiếp, Quế ra lệnh cho các tổ tiếp tục trinh sát địch và chuẩn bị chiến đấu.

Đúng 4 giờ 30 phút, Nguyễn Ngọc Quế lệnh cho khẩu ĐKZ phát hỏa mở màn trận đánh. Một luồng lửa đỏ lao tới chụp vào giữa khu trung tâm đảo Song Tử Tây. Ngay lập tức, Đào Mạnh Hống, Lê Minh Đức, Nguyễn Đức Tuấn, Lê Xuân Phát ấn cò súng, những viên đạn B.40, B.41 vun vút lao vào các mục tiêu trên đảo. Tiếng súng AK, tiếng lựu đạn khắp bốn phía nổ ra như pháo dậy. Bị đánh bất ngờ, bọn địch nhốn nháo chạy ra tìm súng bắn trả quyết liệt.

“Nó bắn ra ghê gớm đến nỗi anh Thơm-Thuyền trưởng Tàu 673 ngoài biển thấy vậy cũng bắn vào để chi viện. Chiến đấu trên đảo khác đất liền, địch trên đảo xác định nếu không giữ được đảo thì họ sẽ chết còn ta tiến công không được cũng vậy nên cả hai đều chiến đấu một mất một còn” – ông Hồng phân tích.

Chớp thời cơ địch hoản loạn sau những loạt hỏa lực trấn áp, Nguyễn Ngọc Quế hô to: Xung phong!

Các chiến sĩ ta từ bốn phía ào lên. Từ phía sau bia chủ quyền, Lê Xuân Phát chạy tới cột cờ giật mạnh mảnh vải có 3 sọc đỏ rách tã xuống và kéo lá cờ đỏ sao vàng năm cánh nửa đỏ nửa xanh lên đỉnh cột. Ở bến đảo phía Nam, một toán địch vừa bắn vừa chạy về phía hai chiếc xuồng máy định tẩu thoát. Nguyễn Ngọc Quế liền hô to: “Anh em binh sĩ ngụy Sài Gòn, hàng thì sống, chống lại thì chết”. Tên đảo trưởng Nguyễn Đức Sinh nhìn các chiến sĩ ta súng lăm lăm trong tay chạy tới. Mặt hắn ủ rũ giơ tay lên trời. Đằng sau hắn, đồng bọn cũng làm đúng như vậy.

Sau 30 phút chiến đấu, Nguyễn Ngọc Quế đã trực tiếp chỉ huy Đội 1 giải phóng đảo Song Tử Tây vào sáng ngày 14-4-1975, ta tiêu diệt 6 tên địch, bắt tên thiếu úy chỉ huy đảo cùng 33 tên lính, thu được 2 đại liên, 1 súng ĐKZ.90, 2 cối 61, 2 trung liên và nhiều vũ khí khác.

Song Tử Tây mất, hệ thống phòng thủ của địch ở Quần đảo Trường Sa bị đe dọa. Địch vội vàng cho hai tàu chiến có số hiệu HQ16 và HQ402 từ Vũng Tàu ra, định phản kích chiếm lại đảo, nhưng do hoang mang trước những thất bại dồn dập của chúng trên chiến trường, cộng với sự bố phòng chặt chẽ của cán bộ, chiến sĩ Phân đội 1, bọn địch chỉ lảng vảng rồi quay về tăng cường cho Nam Yết – thủ phủ chỉ huy của chúng.

Trước tình hình đó, kế hoạch đánh các đảo khác tạm dừng lại. Biên đội tàu của Đoàn 125 được lệnh chở bộ đội Phân đội 2, Phân đội 3 (Đội 1) và số lính ngụy đầu hàng về Đà Nẵng.

Ngày 18 và 19 tháng 4, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân họp rút kinh nghiệm trận đánh ở Song Tử Tây và lên kế hoạch cho các trận đánh tiếp theo, nhận định: Do bị thất bại liên tiếp trên chiến trường, nên địch không có khả năng chi viện cho Quần đảo Trường Sa bằng máy bay, tàu chiến. Sau khi mất Song Tử Tây, lực lượng địch còn lại trên các đảo và trên tàu vô cùng hoang mang. Đây là thời cơ thuận lợi để ta giải phóng các đảo còn lại. Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương: Sử dụng Tàu 673 và điều thêm Tàu 641 của Đoàn 125 ra chở Phân đội 2, Phân đội 3 (Đội 1) và lực lượng đặc công Quân khu 5 đi giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết và Sinh Tồn. Nếu thời cơ thuận lợi thì đánh các đảo này trong cùng một đêm.

Khi nhận lệnh chỉ huy đơn vị đánh chiếm đảo Sơn Ca,Chuẩn đô đốc, Anh hùng LLVT nhân dân Đỗ Viết Cường, nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, nguyên Đội phó Đội 1, Đoàn Đặc công 126, Hải quân không thể quên giây phút đặc biệt đó. Ông chậm rãi kể: “4 giờ sáng ngày 21 tháng 4 năm 1975, trời còn mờ sương, chúng tôi được lệnh lên tàu. Chiếc tàu số hiệu 641 được cải trang thành tàu đánh cá, do đồng chí thuyền trưởng Trần Tú điều khiển rời Đà Nẵng ra thẳng Trường Sa. Lúc này, miền Nam còn nhiều vùng chưa giải phóng, khu vực biển miền Trung có rất nhiều tàu nước ngoài hoạt động. Để tránh bị lộ, tàu của chúng tôi phải liên tục thay đổi biển số tàu. Chúng tôi phải nằm dưới khoang tàu 3 ngày liền, chờ ngày nổ súng.

Những ngày đó, biển lặng nên cuộc hành trình của chúng tôi khá thuận lợi. Khi đi ngang qua đảo Ba Bình do Đài Loan chiếm giữ, tôi thấy nhiều pháo sáng bắn lên sáng rực. Mặc cho pháo sáng lơ lửng trên đầu, tàu của chúng tôi vẫn tiến. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 23 tháng 4 năm 1975, Tàu 641 áp sát đảo Sơn Ca, cách đảo khoảng 2 hải lý. Lúc này nước chảy rất xiết, xuồng không tiếp cận được đảo nên chúng tôi không thể đổ bộ. Tôi lệnh đồng chí Trần Tú cho tàu lùi ra, chạy lên phía trên đầu nguồn nước. Khoảng 23 giờ 30 phút, tôi lệnh cho anh em đổ bộ.

Khẩu ĐKZ của cán bộ, chiến sĩ đặc công tham gia giải phóng Đảo Sơn Ca.

Khẩu ĐKZ của cán bộ, chiến sĩ đặc công tham gia giải phóng Đảo Sơn Ca.

Đêm đó trăng lên muộn. Có ánh trăng nên chúng tôi nhận ra mục tiêu khá dễ dàng. Tôi lệnh cho 20 cán bộ, chiến sĩ chia làm 3 mũi tấn công lên đảo. Mũi thứ nhất do đồng chí Nguyễn Văn Học làm mũi trưởng. Mũi thứ hai do tôi trực tiếp chỉ huy. Mũi thứ ba do đồng chí Hội chỉ huy. Để tránh địch phát hiện, tôi lệnh cho anh em để xuồng cách xa đảo một đoạn, rồi bơi vào. Lần này ta bám được mép đảo không mấy khó khăn. 1 giờ 30 phút, các mũi đã bơi đến đảo mà địch không phát hiện được. Sau khi trinh sát xong, tôi giao nhiệm vụ cho các hướng, các mũi tấn công, phân công một đồng chí dùng B-41 diệt ổ đại liên và hiệp đồng đúng 4 giờ sáng sẽ nổ súng. Hiệu lệnh nổ súng là tiếng lựu đạn của tôi ném vào hầm chỉ huy.

Lúc 2 giờ 40 phút, tôi tiếp cận hầm chỉ huy, một con chó phát hiện người lạ sủa ầm lên. Biết đã bị lộ, tôi liền quăng luôn lưu đạn vào hầm chỉ huy. Chiến sĩ B-41 cũng nhằm khẩu đại liên nhả đạn. Lúc đó, các cỡ súng của ta đồng loạt nổ. Bị đánh bất ngờ, quân địch chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy tán loạn. Ta bắt được mấy tên tù binh, tiến hành khai thác rồi phát loa gọi hàng. Bọn địch biết không thể cầm cự được, kéo nhau ra hàng. 3giờ sáng, trận đánh kết thúc thắng lợi, ta làm chủ đảo Sơn Ca và thu được khá nhiều chiến lợi phẩm.

Một số hình ảnh huấn luyện của cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 (Quân chủng Hải quân).

Một số hình ảnh huấn luyện của cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 (Quân chủng Hải quân).

Khi trời vừa sáng, tôi lệnh cho anh em kéo cờ Giải phóng trên đảo Sơn Ca. Giữa biển khơi, lá cờ tung bay trong gió, khiến quân địch trên các đảo khác hoảng loạn.

Tàu 673 chở Phân đội 3 và một tổ hỏa lực Quân khu 5 tiếp cận đảo Nam Yết. Nhưng do mắc cạn, sợ không bảo đảm an toàn và không bảo đảm thời gian đổ bộ, phần vì khu vực này có tàu địch hoạt động, yếu tố bí mật không còn, nên Tàu 673 đành về phía Song Tử Tây, sau đó về phía đảo Sơn Ca chờ thời cơ.

Ngày 26 tháng 4, Tàu 641 được lệnh chở tù binh về Cam Ranh.

20 giờ 45 phút ngày 26 tháng 4, trinh sát của ta bắt được điện của địch lệnh cho quân của chúng rút khỏi Nam Yết. Sở chỉ huy lập tức thông báo cho Thiếu tướng Mai Năng và chỉ thị: Khẩn trương cho lực lượng đổ bộ lên đảo Nam Yết, quyết không để một lực lượng nào khác lợi dụng cơ hội này chiếm đảo.

1 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, Tàu 673 rời khu vực Sơn Ca, hướng về phía Nam Yết và đến 10 giờ 30 phút sáng thì tới nơi. Thấy tàu ta, hai tàu địch đỗ gần đó liền nổ máy tháo chạy. Phân đội 3 trên Tàu 673 nhanh chóng đổ bộ chiếm lĩnh đảo và nhanh chóng làm chủ đảo Nam Yết.

Sau khi tổ chức lực lượng chốt giữ đảo, Tàu 673 do đồng chí Vũ Phi chỉ huy tiếp tục đi giải phóng đảo Sinh Tồn. 11 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, quân ta đổ bộ lên Sinh Tồn và hoàn toàn làm chủ đảo.

16 giờ cùng ngày, Tàu 673 để lại 18 đồng chí chốt giữ đảo Sinh Tồn, lực lượng còn lại tiếp tục hành quân đi giải phóng đảo Trường Sa Lớn, là đảo xa nhất trong quần đảo.

9 giờ ngày 29 tháng 4, lực lượng ta đổ bộ chiếm Trường Sa. 9 giờ 30 phút, cờ giải phóng tung bay trên đảo. Kể từ thời khắc này, Trường Sa – quần đảo chiến lược và thiêng liêng của Tổ quốc đã hoàn toàn được giải phóng!

Hoàn thành nhiệm vụ giải phóng các đảo trên Quần đảo Trường Sa, Đoàn Đặc công Hải quân 126 cùng các lực lượng khác đã hoàn thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Quân ủy Trung ương giao cho.

Ngày 2 tháng 5 năm 1975, theo mệnh lệnh của trên, Bộ Tư lệnh Hải quân đã bàn giao nhiệm vụ bảo vệ và phòng thủ các đảo thuộc Quần đảo Trường Sa cho Quân khu 5. Toàn bộ lực lượng của Trung đoàn 126 rút về căn cứ Cát Lái (thành phố Hồ Chí Minh) để thực hiện nhiệm vụ mới.

Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng Quần đảo Trường Sa và những nhiệm vụ khác, tháng 9 năm 1975, Đội 1 (Đoàn Đặc công Hải quân 126) một lần nữa được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là lần thứ 3 Đội 1 được tuyên dương danh hiệu cao quý này. Nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ trong đoàn được tặng thưởng huân chương các loại.

Đặc biệt, bằng những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, ngày 6 tháng 11 năm 1978, Đoàn Đặc công Hải quân 126 có thêm 3 đồng chí được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng, đó là các đồng chí Nguyễn Đình Thi, đồng chí Nguyễn Ngọc Quế và truy tặng liệt sĩ Tống Duy Kiên.

Một góc đảo Trường Sa hôm nay.

Một góc đảo Trường Sa hôm nay.

Tổ chức thực hiện: NGUYỄN VĂN MINH - TRỊNH VĂN DŨNG

Nội dung: TRỊNH DŨNG - VĂN MINH

Ảnh:CHU DŨNG, BÁO HẢI QUÂN VIỆT NAM, TƯ LIỆU, TTXVN

Trình bày, đồ họa: LAM ANH - VĂN PHONG - MINH NGỌC

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/loat-ky-su-giai-phong-truong-sa-bai-3-nhung-yet-kieu-xuat-quy-nhap-than-657716