Lối mở cho làng nghề - Kỳ 1: Những di sản sống ở Huế
Với cốt cách nền nã, tinh tế và hàm chứa nhiều triết lý văn hóa, các làng nghề Huế mang nét đặc trưng riêng không trùng lắp với bất cứ làng nghề nào trên cả nước.



Không chỉ là nơi tạo ra sản phẩm vật chất, làng nghề Huế còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, tâm linh, thẩm mỹ và ký ức lịch sử lâu dài. Người Huế thường nói: “Giữ nghề truyền thống Huế là giữ cốt cách Huế”, bởi trong từng chiếc nón, tấm vải, nét tranh thêu hay giọt tinh dầu tràm đều chứa đựng hình bóng tổ tiên và cả một triều đại đã đi qua.
Trong số các vùng đất có nhiều làng nghề truyền thống, Huế thuộc nhóm phong phú và đặc sắc nhất Việt Nam. Từ các nghề chế tác như đúc đồng, kim hoàn, mộc mỹ nghệ, gốm sứ, đến những nghề thủ công phục vụ y học và văn hóa như làm giấy dó, in tranh dân gian, chế biến thực phẩm, nấu tinh dầu, làm nón… đều hội tụ nơi đây. Điểm khác biệt của làng nghề Huế là sự liên hệ mật thiết với triều đình nhà Nguyễn. Không ít nghề tạo ra sản phẩm để phục vụ vua chúa, cung tần mỹ nữ..., vì thế đã tạo nên những chuẩn mực khắt khe về kỹ thuật, thẩm mỹ và chất lượng.

Theo TS. Trần Đình Hằng, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế, từ thế kỷ XVI-XVII, khi các chúa Nguyễn đặt thủ phủ ở Phú Xuân, họ đã chiêu mộ những nghệ nhân tài giỏi từ Bắc vào Nam, từ vùng Hoa kiều đến Chăm Pa để quy tụ về Huế. Chính dòng người này đã tạo nên những cái nôi nghề truyền thống của vùng đất mới. Đến thời vua Gia Long lên ngôi (1802), Huế trở thành kinh đô chính thức của triều Nguyễn. Lúc này, các làng nghề được sắc phong, quy chuẩn và phát triển cực thịnh dưới cơ chế “quan dụng”, có sự bảo trợ và quản lý chặt chẽ của triều đình.
Làng Phường Đúc, nay thuộc phường Thuận Hóa, có nghề đúc đồng truyền thống từ thế kỷ XVI, nhưng thời kỳ cực thịnh là khi triều Nguyễn chọn Huế làm kinh đô. Những cửu đỉnh, tượng đồng, chuông chùa, vạc đồng, đỉnh hương, trống đồng… phục vụ nghi lễ tôn giáo và hành chính nhà nước chủ yếu do làng này đúc ra. Ngày nay, du khách đến Huế sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi đứng trước những chiếc chuông nặng đến hàng tấn, tác phẩm của các nghệ nhân Phường Đúc xưa chế tác.

Anh Nguyễn Phùng Sơn, đời thứ 12 nối nghiệp đúc đồng, hiện đang ở phường Thuận Hóa chia sẻ: “Dòng tộc tôi đã đúc các chuông chùa Huế. Ông cha tôi cũng tham gia đúc chuông chùa Từ Đàm, Từ Hiếu, Linh Mụ... Bản thân tôi cũng từng đúc hàng chục chuông, tượng thờ cho các chùa, đình làng từ Bắc vào Nam, có “đại hồng chung” nặng hơn 30 tấn. Với người Phường Đúc, nghề đúc đồng không chỉ là nguồn sống, mà còn là niềm tự hào, danh dự và ký ức tổ tiên”.

Khác với cái “nóng” của lò đúc đồng, ở Lộc Thủy, huyện Phú Lộc cũ, nay thuộc xã Chân Mây - Lăng Cô có nghề nấu dầu tràm đằm sâu như mạch nước ngầm, âm ỉ và bền bỉ. Theo sử liệu dân gian, người dân ở đây đã chưng cất tinh dầu từ lá tràm gió cách đây vài trăm năm, phục vụ y học bản địa. Dầu tràm Huế, nhất là ở Lộc Thủy, nổi tiếng bởi độ tinh khiết, mùi dịu nhẹ, khả năng giữ ấm tốt và an toàn cho trẻ em, phụ nữ mang thai. Cách nấu dầu nơi đây ngày trước hoàn toàn thủ công bằng nồi đồng, ống tre, lửa củi.

Ở trung tâm thành phố có làng thêu Thuận Lộc, từng chuyên may trang phục và chăn gối cho cung đình triều Nguyễn. Những bức tranh thêu hoa sen, chim hạc, long phụng... được làm hoàn toàn bằng tay, từng mũi kim đều tỉ mỉ, sống động trên nền lụa mịn. Xuôi về vùng hạ lưu sông Hương, làng tranh dân gian Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, nay thuộc phường Dương Nỗ) là một trong ba dòng tranh dân gian nổi tiếng nhất Việt Nam, vẫn tiếp tục in tranh phục vụ lễ cúng, đám cưới, Tết... Dù không còn thời huy hoàng, nhưng mỗi lần màu chàm và giấy dó lên khuôn, người làng lại như thấy bóng dáng ông bà tổ tiên, làng xóm qua tranh.


Điều kỳ lạ ở Huế là dù không còn thời vàng son của quá khứ nơi mỗi làng nghề vốn được triều đình bảo trợ, đào tạo, chuẩn hóa để phục vụ cung đình…, nhưng các làng nghề vẫn lặng lẽ tồn tại. Không ồn ào, nhưng bền bỉ như dòng sông Hương chảy qua lòng thành phố một cách êm đềm, sâu lắng.
Ở Huế, làng nghề không chỉ là nơi tạo ra sản phẩm mà còn là nơi giữ lại linh hồn của một cộng đồng, một vùng đất. Người thợ thủ công không chỉ là “nghệ nhân” đơn thuần, mà còn là người gìn giữ ký ức, những ký ức sống động không ghi trong sách vở mà được khắc trong tay nghề, trong câu chuyện kể lúc đêm về, trong ngọn lửa lò nấu đồng hay trong hương tràm tỏa ra giữa làng quê... Mỗi thế hệ đều để lại một lớp ký ức, không bằng lời mà bằng hành động như cách cha dạy con chẻ tre, mẹ dạy con hong giấy, hay cụ bà ngồi chậm rãi luồn từng sợi chỉ thêu trên nền lụa mịn...
Chạm sâu về quá khứ của làng nghề Huế, tôi lại nhớ về nghề làm gốm làng Phước Tích. Ngôi làng này nằm bên bờ sông Ô Lâu, cách trung tâm TP. Huế chừng 40km về phía Bắc. Theo sử cũ, nghề gốm làng Phước Tích hình thành hơn 500 năm với cái tên gọi là làng Kẻ Đôộc. Thời nhà Nguyễn, Phước Tích là trung tâm sản xuất gốm lớn của kinh thành, sản phẩm có mặt khắp các tỉnh miền Trung.
Các bậc cao niên trong làng kể, không phải đến thời Nguyễn mà ngay từ thế kỷ XVII, XVIII, nghề gốm Phước Tích phát triển rất mạnh. Thời đó cả làng có hơn chục lò gốm nằm rải rác gần các bến nước bên sông Ô Lâu. Các lò nổi lửa suốt ngày, thương lái các nơi đến mua bán tấp nập đã mang đến sự giàu có và tiếng tăm cho người dân nơi đây.
Gốm Phước Tích làm bằng đất sét lấy từ sông Ô Lâu và được nung rất kỹ theo phương pháp truyền thống. Lò nung đắp kiên cố, nhiệt cao, lửa lúc nào cũng đượm hồng, nhờ thế mà sản phẩm ra lò không nứt, không giòn. Gốm Phước Tích đẹp nhờ vẻ mộc mạc, tự nhiên, cốt gốm dày và rắn chắc như hóa sành, bên ngoài không tráng men nhưng màu gốm tự nhiên nâu sậm sạch đẹp, bóng. Vì vậy, nhiều sản phẩm mang tính mỹ thuật cao, như chậu, om, niêu, ấm… được trưng dụng trong Hoàng cung triều Nguyễn mà đến nay người dân Phước Tích vẫn tự hào, hãnh diện.

Không riêng sản phẩm gốm Phước Tích mà trong mỗi chiếc nón bài thơ, giọt dầu tràm, khung tranh dân gian hay chuông đồng cổ Huế… không chỉ có kỹ thuật mà còn có lễ nghĩa, có triết lý sống. Nhiều địa phương khác vẫn có nghề làm gốm, làm tranh thêu nhưng gốm Phước Tích, tranh Huế không chỉ làm để treo trang trí, lưu niệm ở phòng khách mà còn để thờ. Ở nơi khác vẫn có nghề chưng cất tinh dầu, nhưng dầu tràm Huế là sự hòa quyện giữa y học bản địa và đạo lý dân gian. Chính vì thế, nghề truyền thống ở Huế không chỉ làm để sống, mà còn để giữ đạo, giữ lấy phần tinh hoa cha ông để lại.
Nhiều nghề dù đã qua thời cực thịnh, nhưng vẫn còn rất nhiều nghệ nhân Huế kiên trì giữ nghề dù không còn lời lãi. Họ có thể sống bằng nghề khác nhưng vẫn giữ nghề xưa như một cách trả ơn tiền nhân. Đó không phải sự hoài niệm mà là một lựa chọn đầy tự trọng, nghĩa tình. Thế nhưng với dòng chảy thời gian không ngừng, khi công nghệ lên ngôi, khi thị trường đòi hỏi những thứ nhanh, rẻ, tiện lợi thì những nghề cần sự tỉ mỉ, cần “cái tâm” giữ hồn cốt của sản phẩm làng nghề lại trở thành một cuộc vật lộn lặng lẽ.

TS. Trần Đình Hằng, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế nói rằng: “Làng nghề Huế mang tính biểu tượng rất cao. Nó không chỉ là kinh tế, mà còn là bản sắc văn hóa của Cố đô. Sự tinh tế, chuẩn mực, khắt khe trong từng chi tiết kỹ thuật cũng phản ánh tinh thần trọng lễ nghĩa, trọng giá trị truyền thống của người Huế”.
