Lối mở cho làng nghề - Kỳ 2: Thiếu lớp trẻ kế cận, các làng nghề lay lắt
Với xu thế phát triển của thời đại mới, nhiều làng nghề rơi vào tình trạng mai một, thiếu vốn và công nghệ lạc hậu. Những khó khăn ấy là rào cản lớn khiến nghề truyền thống dần mất chỗ đứng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay.


Trở lại làng Phường Đúc sau khi kết nối với anh Nguyễn Phùng Sơn, một nghệ nhân đời thứ 12 nghề đúc đồng ở Huế như đã đề cập ở kỳ trước. Trong khuôn viên nhà xưởng lò đúc (đường Huyền Trân Công Chúa, phường Thuận Hóa), anh Nguyễn Phùng Sơn chia sẻ, cả làng Phường Đúc từng rền vang tiếng búa, giờ chỉ còn chừng 10 hộ theo nghề đúc đồng. Những gia đình từng có tiếng tăm về nghề đúc đồng vào những thập niên 80, 90 trước đây, giờ lò của họ đã tắt lửa. Phần lớn trong số đó là bậc thầy, là nghệ nhân nghề đúc nay đã cao tuổi nhưng con cháu của họ rất ít người nối nghiệp. Theo anh Sơn, có nhiều lý do nghề đúc đồng không được nối truyền, nhưng chung quy vẫn do nghề này đòi hỏi mắt tinh, tay khéo, nhưng thu nhập không ổn định khiến nhiều người trẻ không theo đuổi nữa.
Từng được ví như “Trái tim kim loại của kinh đô”, làng nghề đúc đồng ở Phường Đúc nay không còn rộn ràng như xưa. Theo thống kê của UBND phường Phường Đúc (cũ) vào đầu năm 2025, số hộ sản xuất ở đây đã giảm gần 80% so với đầu những năm 2000.

Tại làng thêu truyền thống Thuận Lộc hay Phú Hòa nằm ở trung tâm TP. Huế từng phát triển rực rỡ sau ngày đất nước thống nhất, nhưng hiện chỉ còn vài trường hợp theo nghề và buôn bán ở phố Phan Đăng Lưu. Trên con phố này, tôi may mắn gặp bà Trần Thị Mỹ Linh, vốn là nữ sinh Đồng Khánh đã theo nghề thêu hơn 45 năm, hiện là thành viên của HTX thêu truyền thống Phú Hòa. Theo bà Linh, nghề thêu một thời ăn nên làm ra giờ đã thoái trào nhưng bà vẫn giữ nó bởi nghề là một phần của cuộc đời bà. Đưa đưa tay vuốt nhẹ lên bức tranh thêu “Đại cát đại hỷ”, bà nói: “Hàng tranh thêu tay khách mua rất ít. Mấy người con tôi bảo mũi kim, đường chỉ thủ công giờ không nuôi nổi cuộc sống nhưng tôi vẫn quyết giữ nghề”.

Ông Đặng Hữu Phúc, Giám đốc Sở Công thương cho biết, hiện thành phố có 39 nghề, làng nghề và làng nghề truyền thống được công nhận; trong đó gồm 9 nghề truyền thống, 10 làng nghề và 20 làng nghề truyền thống. Đáng buồn, phần lớn các nghề làng, làng nghề truyền thống được công nhận chỉ hoạt động cầm chừng. Nguyên nhân một phần đến từ sự thay đổi trong xu hướng lao động. Thanh niên hiện nay có nhiều sự lựa chọn ngành nghề công việc ở khu công nghiệp, khu kinh tế, các trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao… Đây là lý do mà ngày càng ít người trẻ làm việc ở các làng nghề truyền thống. Điều này ngành Công thương đang trăn trở tìm các giải pháp để đưa các làng nghề truyền thống Huế bước sang trang mới, thích ứng với cơ chế thị trường.

Tại làng dầu tràm Lộc Thủy, xã Chân Mây-Lăng Cô, ông Trương Viết Đính, người đã gắn bó hơn 40 năm với nghề nấu dầu tràm kể: “Trước đây làng có khoảng 200 hộ tham gia, thì nay còn khoảng 35 hộ giữ nghề. Mỗi mùa lá tràm về, mùi tinh dầu không còn thơm đậm như xưa. Rất ít người trẻ trong làng quan tâm đến nghề của ông cha để lại”.
Câu chuyện từ Phường Đúc đến Lộc Thủy, từ tranh thêu Thuận Lộc, Phú Hòa hay tranh làng Sình… là một thực tế: Làng nghề Huế đang giảm sút nghiêm trọng về lực lượng kế thừa. Lớp nghệ nhân cao tuổi dần yếu, trong khi lớp trẻ lại rời xa.
Tương tự, làng gốm Phước Tích cũng chỉ còn vài ba người luống tuổi được xưng danh là nghệ nhân làm gốm. Trong đó có anh Lương Thanh Hiền (54 tuổi), nguyên là thợ kim hoàn nhưng bằng niềm đam mê, trân quý nghề xưa anh đã dựng xưởng làm gốm. Anh Hiền bộc bạch: “Ở Huế làm nghề xưa không nuôi nổi cuộc sống hiện tại, bởi một mẻ gốm phải mất gần một tuần mới làm xong các khâu từ tạo hình đến nung, nhưng mỗi chiếc bán ra chỉ vài chục đến trăm nghìn đồng, không đủ chi phí trang trải”.

Làng nghề Huế mang nét đẹp truyền thống nhưng cũng chính điều đó khiến họ khó thích nghi với nhịp sống thị trường hiện đại. Đa phần cơ sở sản xuất tại các làng nghề hoạt động theo lối thủ công, thiếu công nghệ, vốn đầu tư.
Tại làng rèn cầu Vực Thủy Châu (phường Hương Thủy), nơi bắt nguồn từ làng rèn Hiền Lương (phường Phong Thái) từ hàng trăm năm trước giờ cũng đang đối mặt với nguy cơ mai một. Anh Huỳnh Văn Lam, người từng nối nghiệp bố làm nghề rèn cầu Vực chia sẻ: Những chiếc kéo, dao, rựa hình dáng vẫn như trước, chưa đổi mới mẫu mã như các sản phẩm nhập ngoại hoặc được sản xuất theo kiểu công nghiệp nên khó cạnh tranh, thị trường ít chuộng. Chính lý do đó, quy mô sản xuất nghề hẹp dần, nhiều gia đình đã rẽ sang làm những việc khác, nghề khác. Bản thân anh Lam giờ đã chuyển sang buôn bán để kiếm sống.
Không riêng việc ít đổi mới hình thức, mẫu mã, hoạt động làng nghề cũng đang cho thấy thiếu tính liên kết. Hiện các hộ sản xuất trong làng nghề thường mạnh ai nấy làm, tự làm, tự bán, thiếu hợp tác với doanh nghiệp, hệ thống phân phối hay sàn thương mại điện tử. Chị Hồ Thị Phú, một người làm nón ở làng nghề Thanh Tân (phường Phong Thái) nói: “Chúng tôi làm thủ công, bán lẻ ở các quầy lưu niệm. Chưa biết cách xây dựng thương hiệu, mẫu mã chưa bắt mắt, không bán online nên mỗi cái nón chỉ có giá vài chục ngàn đồng và chủ yếu là khách lẻ…”.

Do tư duy cách làm ở làng nghề theo lối cũ; trong đó thiếu hỗ trợ công nghệ, từ khâu làm ra đến tiêu thụ, khiến làng nghề Huế mai một dần. Nếu so sánh các làng nghề ở hai đất nước như Đồng Nai, Bình Dương , Bắc Ninh (cũ)… khi mà họ đã đầu tư hệ thống máy móc, xây dựng các cụm làng nghề, kết hợp du lịch, mở showroom để xuất khẩu hàng đi nước ngoài thì các làng nghề ở Huế vẫn cho thấy sự lạc hậu.
Ông Nguyễn Thế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian TP. Huế cho rằng: “Vấn đề của làng nghề Huế không chỉ là kinh tế mà là sự đứt gãy giữa truyền thống và hiện đại. Nếu không có sự can thiệp đúng lúc, đúng cách, nhiều làng nghề có nguy cơ trở thành “di sản chết”, chứ không sống giữa cộng đồng nữa. Tầm quan trọng của giáo dục và truyền thông làng nghề để lớp trẻ hiểu và tự hào với nghề cha ông, chứ không chỉ xem đó là công việc tay chân. Giữ nghề cần cả một hệ sinh thái từ giáo dục, công nghệ, truyền thông đến thị trường và chính sách Nhà nước”.


Một trong những điểm yếu lớn nhất của làng nghề Huế là thiếu thương hiệu. Dù nhiều sản phẩm có chất lượng cao, tinh xảo, mang đậm bản sắc văn hóa, nhưng phần nhiều lại chưa đăng ký bảo hộ thương hiệu, chưa có chỉ dẫn địa lý… dù thời gian gần đây các sở, ngành chức năng liên quan đã hỗ trợ đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị sản phẩm cho các làng nghề.
Câu chuyện của làng nghề dầu tràm Lộc Thủy là một ví dụ dù được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao. Gần đây, sản phẩm dầu tràm Lộc Thủy lại bị nhiều nơi làm giả, làm nhái đã làm mất niềm tin với khách hàng. Bà Nguyễn Thị Tâm, người làm dầu tràm hơn 30 năm tại Lộc Thủy bức xúc: “Nhiều chai ghi “Dầu tràm Lộc Thủy” nhưng bên trong không phải dầu tràm do người Lộc Thủy tinh chế từ nguồn nguyên liệu ở địa phương mà chính dầu nơi khác, giá rẻ chỉ bằng nửa, hoặc một phần ba dầu tràm Lộc Thủy".

Tương tự, nón lá Thanh Tân, tranh làng Sình, thêu Thuận Lộc, những sản phẩm từng vang bóng đến nay vẫn chưa có thương hiệu đăng ký độc quyền, chưa có bao bì chuyên nghiệp. Du khách mua xong về nhà không biết sản phẩm đến từ đâu, của ai làm.
Thời đại chuyển đổi số, nhưng rất ít làng nghề Huế có fanpage, website, gian hàng thương mại điện tử. Việc livestream, quảng bá, nhận diện thương hiệu trên mạng gần như ít được thực hiện.

Anh Trần Quang Minh, một du khách từ Hà Nội đến trải nghiệm nghề làm tranh Sình cho biết: “Các cô bác ở đây in tranh đẹp nhưng chưa biết chụp hình, không có điện thoại tốt và không biết đăng bài lên mạng. Trong khi ở Hà Nội và các tỉnh, thành khác người ta bán một bức tranh thủ công từ vài trăm đến vài triệu đồng. Trong khi đó ở làng Sình chỉ bán vài chục nghìn đồng”.
Những hạn chế trên khiến sản phẩm làng nghề Huế khó đi đến các thị trường tiêu thụ lớn.

