'Lũ Mường' - Dòng chảy lịch sử vùng cao Tây Bắc

Không chỉ là câu chuyện đấu tranh cách mạng, Lũ Mường còn là tấm gương phản chiếu phong tục, tập quán, tâm lý và tình cảm của con người Tây Bắc trong giai đoạn giao thời lịch sử.

Về nội dung, Trần Nguyên Mỹ đã xây dựng Lũ Mường như một bức tranh toàn cảnh của vùng đất biên giới Việt - Lào đầy khắc nghiệt nhưng giàu tiềm năng. “Lũ” trong tác phẩm mang nhiều tầng nghĩa, đó là lũ dữ thiên nhiên từ thượng nguồn đổ về; là cơn lũ cách mạng quét sạch cường quyền và cũng là “con lũ tình yêu” giữa những số phận trẻ tuổi, như Bạc Cầm Hoàng Vang và Lường Thị Chiêng, dám yêu, dám hy vọng giữa hiểm họa thù hận.

Trục chính của tiểu thuyết xoay quanh nhân vật Bạc Cầm Hoàng Vân, Phìa mường Nậm Ty - người đại diện cho lớp quan chức địa phương có học, có chữ, nhưng giàu lòng nhân ái và ý thức danh dự. Dù có quyền thế, ông không tham nhũng, không bóc lột dân nghèo; trái lại, sẵn sàng bán cả đàn trâu mười chín con, chia ruộng cho dân, ủng hộ kháng chiến. Nhân vật này là biểu tượng của sự thức tỉnh lương tri, đứng về phía nhân dân, đồng thời nối dài truyền thống hào hùng của dòng họ Bạc Cầm từng theo chúa Hoàng Công Chất đánh giặc phương Bắc.

Bên cạnh đó, Trần Nguyên Mỹ khắc họa sinh động các thế lực phản diện, bọn quan Pháp đứng đầu là Đờ Vanh, cai Cầm Phay tàn ác, thú tính, sẵn sàng “ăn cả pịa người”, gieo rắc khủng bố để củng cố quyền lực. Sự đối lập thiện - ác, nghĩa - phi nghĩa, quả cảm - hèn nhát được đặt trong thế giằng co đầy kịch tính, làm nổi bật khí phách vùng cao.

Tiểu thuyết gồm 21 chương, mở đầu bằng lễ khao chức Phìa mường Bạc Cầm Hoàng Vân, kết thúc bằng khởi nghĩa mùa hè 1950 giành chính quyền về tay nhân dân. Toàn bộ tác phẩm như một dòng lũ chảy dài qua các biến cố lịch sử, từ thời Pháp xâm lược, qua giai đoạn kháng chiến chống thực dân, tới thời khởi nghĩa thành công.

Những cơn lũ thực, ào ạt từ thượng nguồn đổ về, được miêu tả như sức mạnh thiên nhiên vừa tàn phá vừa thanh lọc. Cách miêu tả lũ của Trần Nguyên Mỹ giàu chất điện ảnh, như: mưa dữ dội, dòng nước cuồn cuộn, đất đá lở đổ... Những hình ảnh ấy không chỉ làm cho câu chuyện, mà còn gợi cảm giác về sự chuyển mình của thời cuộc.

“Con lũ” thứ hai chính là sức mạnh cách mạng. Tác giả sử dụng hình ảnh lũ như một ẩn dụ lịch sử: khi lòng dân đã tích tụ, khi sự áp bức đến tột cùng, cuộc khởi nghĩa bùng nổ như lũ cuốn sạch bạo quyền. Cao trào mùa hè 1950, khi dân mường Nậm Ty đồng loạt phá tan đồn Tây, trở thành đỉnh điểm của dòng chảy này.

Song hành với lịch sử, tiểu thuyết dệt nên mối tình giữa Bạc Cầm Hoàng Vang (con trai Phìa mường Hoàng Vân) và Lường Thị Chiêng - cô gái múa xòe giữa bão tố nghi kỵ, thù hận. Mối tình ấy mang tính lãng mạn, khơi dậy niềm tin rằng giữa bạo lực và chiến tranh, con người vẫn hướng về ánh sáng, về ngày mai tươi đẹp.

Về nghệ thuật, một trong những thành công nổi bật của Lũ Mường là nghệ thuật kể chuyện: Trần thuật - đa thanh, đa điểm nhìn. Tác phẩm mang tính đa thể loại: vừa là tiểu thuyết lịch sử, vừa là tiểu thuyết phong tục, đời tư, có cả yếu tố dã sử. Điều này cho phép tác giả tái hiện lịch sử qua lăng kính đời sống, không khô cứng sử liệu, mà mềm mại, uyển chuyển. Trần Nguyên Mỹ vận dụng xen kẽ hai hình thức điểm nhìn: Người kể toàn tri sắp đặt sự kiện, kết nối các tuyến truyện, dựng nên “bức tranh toàn cảnh”. Điểm nhìn nhân vật, để nhân vật tự giãi bày, kể về quá khứ dòng họ, tình yêu, nỗi đau. Điển hình là lời tâm sự của Hoàng Vân, sự hồi tưởng của Hoàng Vang, hay tiếng hát của Lường Thị Chiêng trong hang Chi Đẩy.

Ngôn ngữ của Lũ Mường đậm màu sắc Tây Bắc, nhiều phương ngữ Thái, tục ngữ, câu hát, lối so sánh gợi cảnh rừng núi. Những đoạn tả lũ, tả bản mường, tả lễ hội xòe hay lễ khao chức, đều vừa có tính hiện thực, vừa huyền ảo như cổ tích.

Lũ Mường phản ánh trung thực giai đoạn lịch sử giao thời, trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sơn La, khi nhân dân chịu cảnh “một cổ hai tròng”, vừa bị thực dân Pháp áp bức, vừa bị tầng lớp phìa tạo bóc lột. Qua hình tượng “cơn lũ cách mạng”, tiểu thuyết khẳng định sức mạnh đoàn kết quân - dân, niềm tin vào cách mạng, sự đổi đời của bản mường. Giá trị nhân văn của tác phẩm còn thể hiện ở niềm tin vào con người, dù trong khổ đau, họ vẫn biết đùm bọc, vẫn nuôi dưỡng tình yêu, hy vọng và lòng vị tha, biết chọn chính nghĩa. Mối tình Hoàng Vang - Lường Thị Chiêng là minh chứng cho vẻ đẹp nhân bản ấy.

Lũ mường là kho tư liệu sống động về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian vùng cao, từ truyền thuyết Hoàng Công Chất, lễ khao chức, đến những câu hát Tiễn dặn người yêu. Trần Nguyên Mỹ không chỉ kể chuyện lịch sử, mà còn phục dựng “không gian văn hóa Mường Nậm Ty”, làm sống lại cả một thế giới với núi non, bản làng, con người vừa chất phác vừa kiên cường - một không gian văn hóa nguyên sơ nhưng đầy sức sống, nơi huyền thoại và hiện thực đan cài.

Tiểu thuyết Lũ Mường của Trần Nguyên Mỹ là một thành công của văn học cách mạng viết về Tây Bắc, kết hợp được sử thi và trữ tình, hiện thực và lãng mạn, cá nhân và cộng đồng, giữa khát vọng cách mạng và bản sắc văn hóa vùng cao... Nó không chỉ phản ánh một giai đoạn lịch sử mà còn giữ vai trò như một “ký ức tập thể” của đồng bào Tây Bắc, vùng cao biên giới Việt - Lào trong thế kỷ XX.

Kim Ngọc (CTV)

Nguồn Sơn La: https://baosonla.org.vn/van-hoa-xa-hoi/lu-muong-dong-chay-lich-su-vung-cao-tay-bac-Ok35FDrHR.html