Luật AI mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, ông Lê Hồng Quang, Tổng giám đốc Tập đoàn MISA, khẳng định: 'Đây là thời điểm thích hợp để Việt Nam ban hành...



Nếu dự án Luật Trí tuệ nhân tạo (Luật AI) được Quốc hội thông qua, Việt Nam sẽ thuộc nhóm những nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật AI. Ở góc độ doanh nghiệp đã và đang đầu tư mạnh vào AI, ông nhìn nhận như thế nào về sự phát triển trong lĩnh vực AI của Việt Nam hiện nay?
AI hiện nay gần như đã trở thành một hạ tầng số căn bản của nền kinh tế. Công nghệ này đang phát triển quá nhanh chóng, vì vậy tôi cho rằng việc ban hành Luật AI vào thời điểm này là hết sức cần thiết vì nó tạo ra khuôn khổ pháp lý để thúc đẩy đổi mới, nhưng đồng thời cũng đặt ra các tiêu chuẩn về minh bạch và đạo đức để đảm bảo phát triển bền vững.
Theo tôi, Luật AI khi được thông qua có thể tác động ở hai khía cạnh.
Thứ nhất, với các công ty công nghệ như MISA, Luật mở ra cơ hội rất lớn. Những quy định về hỗ trợ nghiên cứu phát triển, cơ chế thử nghiệm (sandbox), ưu đãi đầu tư hay xây dựng các bộ tiêu chuẩn dữ liệu dùng chung… tất cả sẽ mở ra một môi trường thuận lợi để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, hợp tác và triển khai sản phẩm mới. Sân chơi này không chỉ có doanh nghiệp lớn, mà cả doanh nghiệp nhỏ cũng có đầy đủ điều kiện để tham gia sâu hơn.
Thứ hai, Luật AI sẽ còn mang lại sự yên tâm cho cả bên thụ hưởng và sử dụng sản phẩm AI. Vì khi đã có cơ chế giám sát, tiêu chuẩn an toàn và yêu cầu minh bạch, nghĩa là sẽ đảm bảo được các ứng dụng AI sẽ phát triển theo hướng tích cực, lành mạnh, giảm thiểu rủi ro. Khi người dùng có niềm tin thì thị trường tự nhiên sẽ phát triển.

Đó là sự phát triển của thị trường AI Việt Nam. Còn so với bức tranh AI toàn cầu thì sao, qua đó để thấy mức độ “bắt nhịp” của Việt Nam ở góc độ pháp lý trong lĩnh vực đang phát triển như vũ bão này, thưa ông?
Nếu đặt Việt Nam trong bức tranh AI toàn cầu, có thể thấy Chính phủ đã tiếp cận rất nhanh xu thế này.
Tốc độ lan tỏa của AI đang khác hẳn các chu kỳ công nghệ trước, không phải 5–10 năm mà những đột phá của nó được tạo ra chỉ tính bằng từng năm. Năm nay là khái niệm, năm sau là các ứng dụng cụ thể và chỉ một hai năm sau nữa là những kết quả đột phá.
AI ra đời cũng giống như khi điện ra đời, mọi ngành đều phải dựa vào nó để hoạt động. AI đang lan tỏa trong tất cả các lĩnh vực, mọi ngành nghề rồi sẽ đều phải dựa vào công nghệ này. Cho nên, hầu hết các nước đều đang cuốn vào cuộc đua về AI. Còn riêng Việt Nam, lợi thế nằm ở chỗ tốc độ chuyển đổi số trong những năm gần đây rất mạnh mẽ, từ khu vực chính phủ đến doanh nghiệp. Tốc độ chuyển đổi số càng nhanh thì càng tạo điều kiện thuận lợi về dữ liệu. Khi dữ liệu ngày càng đầy đủ, chuẩn hóa và dễ tiếp cận, đó chính là “nhiên liệu” để AI phát triển.
Bên cạnh đó, chúng ta có lực lượng lao động trẻ, tư duy logic tốt. Điều này giúp Việt Nam tiếp cận nhanh với các công nghệ mới.
Một lợi thế nữa là Chính phủ rất quan tâm và chủ động hoạch định chính sách. Việt Nam ban hành Chương trình quốc gia về AI khá sớm, đồng thời có nhiều cơ chế hỗ trợ nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng.
Nguồn lực doanh nghiệp công nghệ ngày càng đông đảo, không chỉ các tập đoàn lớn mà cả làn sóng startup công nghệ mới xuất hiện liên tục tham gia vào AI. Do đó, Việt Nam cũng đang là một trong những điểm sáng trên bản đồ AI thế giới, nhất là ở tốc độ xây dựng thể chế và ứng dụng.
Tuy nhiên Việt Nam chưa thể đứng vào nhóm dẫn đầu về phát triển các mô hình nền tảng hay sản xuất hạ tầng tính toán như một số quốc gia lớn. Những “cuộc chơi” như sản xuất chip GPU hay xây dựng LLM khổng lồ đòi hỏi nguồn lực mà hiện tại Việt Nam chưa có lợi thế.
Điều đó cũng có nghĩa chúng ta cần lựa chọn con đường phù hợp hơn: tập trung vào ứng dụng, vào giải quyết bài toán thực tiễn, vào dữ liệu ngành và vào những sản phẩm AI mang dấu ấn Việt Nam.
Muốn phát triển AI, cần có cộng hưởng ba yếu tố: hạ tầng tính toán đủ mạnh; hệ thống dữ liệu được chuẩn hóa, có cơ chế chia sẻ và bảo vệ; cùng lực lượng nhân sự nghiên cứu kỹ thuật dồi dào.
Một môi trường chính sách rõ ràng sẽ kết nối ba yếu tố đó. Những gì được coi là “bất lợi” thực chất chỉ là các vấn đề cần giải quyết để hệ sinh thái vận hành tốt hơn, Chính phủ đang đi đúng hướng khi thể chế hóa các yêu cầu này.


Nếu Luật được bấm nút thông qua, theo ông, việc này sẽ hỗ trợ như thế nào các doanh nghiệp trong việc phát triển AI Việt Nam?
Vai trò dẫn dắt của Chính phủ trong phát triển AI tại Việt Nam hiện nay rất rõ ràng, không chỉ ở tầm định hướng mà còn qua các biện pháp thể chế hóa cụ thể.
Thứ nhất, Nhà nước có các chính sách hỗ trợ nghiên cứu và làm chủ công nghệ lõi. Doanh nghiệp nào có kế hoạch đầu tư nghiêm túc vào R&D đều được hỗ trợ về tài chính.
Thứ hai, dự luật đang thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác giữa viện – trường và doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho các bên phối hợp nghiên cứu rất chặt chẽ. Các sáng kiến công nghệ sẽ được thương mại hóa, thay vì nằm trong “ngăn kéo”.
Thứ ba, với các công nghệ mới như AI, cơ chế thử nghiệm nhanh là cực kỳ quan trọng. Quy định sandbox trong dự luật chính là công cụ giúp doanh nghiệp có thể triển khai và kiểm chứng sản phẩm mà không bị ràng buộc bởi những quy trình cũ, không còn phù hợp với tốc độ đổi mới hiện nay.
Nhà nước cũng đưa ra định hướng rất rõ ràng. Phát triển AI không phải để thay thế con người, mà để hỗ trợ con người, tăng năng suất, tối ưu công việc và tạo ra giá trị mới. Đi kèm với đó dự luật cũng yêu cầu sự minh bạch, khả năng giải thích và chuẩn mực đạo đức trong phát triển AI để đảm bảo sản phẩm đi đúng hướng và người dùng yên tâm hơn.
Khi niềm tin được củng cố, cả phía cung lẫn cầu đều phát triển, từ đó thị trường AI tự khắc mở rộng.
Đối với riêng MISA, chúng tôi nhìn thấy rất rõ cơ hội và hướng đi mà khung chính sách này mở ra. Vì vậy, trong giai đoạn tới, chúng tôi sẽ có những thay đổi rất lớn. Mục tiêu chuyển đổi chiến lược là từ cung cấp phần mềm dạng dịch vụ (SaaS) sang cung cấp AI như một dịch vụ AI as a Service. Chúng tôi muốn mang AI vào mọi vị trí và quy trình trong doanh nghiệp.
Mục tiêu cuối cùng là giúp các doanh nghiệp vận hành theo mô hình “Agentic Enterprise” là mô hình doanh nghiệp được vận hành tự động hóa ở mức cao, bởi lực lượng lao động số. Đây sẽ là hướng đi dài hạn của chúng tôi trong kỷ nguyên AI.
Không nên hiểu là AI sẽ thay thế hoàn toàn con người, mà tại những doanh nghiệp này, mỗi nhân sự sẽ có nhiều “bản sao số” hỗ trợ, còn họ vẫn giữ vai trò phân vai với hệ thống: lý giải vì sao AI đưa ra quyết định, đưa ra phán quyết cuối cùng, thiết lập các quy tắc vận hành và xử lý khi có tình huống bất thường. Vì vậy, AI không thay thế con người mà nó khuếch đại năng suất của con người lên nhiều lần.
Ví dụ, khi lãnh đạo cần biết doanh số trong ngày, thay vì chờ đợi báo cáo của cấp dưới, AI sẽ đọc dữ liệu, phân tích và trả lời ngay lập tức. Nó có thể đóng vai trợ lý, người tham mưu, đối tác trao đổi, thậm chí trong một số trường hợp còn gợi ý phương án tối ưu hơn con người.
Hay về một công cụ AI chăm sóc khách hàng, nếu công cụ chưa có đủ thông tin, con người vẫn có thể bổ sung. Ngược lại, khi xuất hiện câu hỏi khó, chúng ta lại hỏi chính agent vì nó nắm dữ liệu nhiều hơn. Nếu câu trả lời hợp lý, chúng ta chuyển nó thành phản hồi chính thức cho khách hàng.
Nói cách khác, AI vừa là người hỗ trợ, người tham mưu, người thực thi, và đôi khi là đối tác trong các cuộc trao đổi chuyên môn.

Cụ thể như MISA, các ông đã đầu tư để chuyển hướng hoàn toàn sang cung cấp dịch vụ AI như thế nào?
MISA đã cam kết với Chính phủ đầu tư 2.500 tỷ đồng trong vòng 5 năm để xây dựng hạ tầng tính toán nhằm bảo đảm dữ liệu được tạo ra, xử lý và lưu trữ ngay tại Việt Nam.
Chúng tôi cũng phát triển Mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) riêng của MISA. Đây là mô hình được huấn luyện và tinh chỉnh để hiểu sâu sắc đặc thù dữ liệu Việt Nam cũng như các bài toán của thị trường trong nước.
Trên thế giới có nhiều mô hình nguồn mở, nhưng thay vì phụ thuộc hoàn toàn, chúng tôi sử dụng chúng như nền tảng để tinh chỉnh bằng dữ liệu nội địa và triển khai trên hạ tầng tính toán đặt tại Việt Nam. Cách tiếp cận này giúp đảm bảo chủ quyền dữ liệu, tăng tốc độ xử lý và tạo ra mô hình phù hợp hơn với ngôn ngữ, văn hóa và nghiệp vụ Việt Nam.
Chúng tôi còn đang chuyển dịch nguồn nhân lực mạnh mẽ. Cả nghìn lập trình viên của chúng tôi đang được chuyển sang vị trí chuyên sâu về AI. MISA cũng đã thành lập công ty ở nước ngoài để chuẩn bi cung cấp sản phẩm cho thị trường quốc tế.
MISA cho rằng cuộc chơi AI hiện nay là cuộc chơi có thể “viết lại” vị thế. Nếu các “ông lớn” không kịp đổi mới, họ có thể tụt lại ngay, còn những doanh nghiệp nhỏ nhưng nhanh, táo bạo thì hoàn toàn có cơ hội vươn lên.
Thị trường phần mềm toàn cầu đã có nhiều hãng nổi tiếng từ lâu. Nhưng khi chuyển sang kỷ nguyên AI, điều quan trọng không phải là quy mô, mà là chọn được ngách đúng và tạo ra sản phẩm giải quyết vấn đề người dùng tốt đến đâu. Thị trường AI toàn cầu rộng vô hạn, có rất nhiều “chỗ để chơi” và hầu hết các bài toán đều phải viết lại, làm lại.
Mình có thể hình dung giống như ngành ô tô. Nếu trong cuộc đua xe xăng, những người đi sau rất khó cạnh tranh. Nhưng sang xe điện – một cuộc chơi mới – thì một hãng mới hoàn toàn cũng có thể trở thành công ty dẫn đầu. Với AI cũng vậy. Tất cả đang quay lại điểm xuất phát và ai đủ nhanh, đủ bản lĩnh thì người đó có thể giành vị thế mới. Đó là lý do MISA xác định chiến lược 5 năm tới là mạnh dạn tham gia vào cuộc chơi toàn cầu.

Vậy khi nào MISA có thể đưa sản phẩm AI của mình vươn ra sân chơi quốc tế?
Chúng tôi đã bắt đầu rồi. Một số sản phẩm và khoản đầu tư đã được triển khai tại nước ngoài. Nhu cầu cốt lõi của doanh nghiệp trên thế giới khá giống nhau. Điều khác chỉ là khả năng bản địa hóa sản phẩm, xây dựng niềm tin và thương hiệu ở những thị trường mới.
Các sản phẩm trước đây của MISA mang ra thị trường quốc tế đã cho thấy không hề thua kém. Nhiều cái thậm chí còn tốt hơn.
Phần mềm MISA làm được và làm tốt. Vấn đề là tổ chức vận hành. Ngồi ở Việt Nam để bán cho toàn cầu thì khó, nên chúng tôi phải thành lập các công ty, có đội ngũ thực tế tại thị trường sở tại và hợp tác với các đối tác quốc tế.
Cuộc chơi AI không hề dễ, nhưng chỉ có khi dám chơi thì mới có cơ hội thắng. Đáng mừng, tôi đã thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang dám bước vào cuộc đua đó.
Còn nói riêng về MISA, chúng tôi có chiến lược đầu tư dài hạn và bài bản, theo bốn lớp hạ tầng để vừa làm chủ AI tại Việt Nam, vừa đủ năng lực bước ra toàn cầu.
Lớp thứ nhất là hạ tầng phần cứng. Năm 2025, MISA đầu tư khoảng 6 triệu USD cho GPU và trung tâm dữ liệu đặt tại Việt Nam. Năm 2026, chúng tôi cam kết sẽ tiếp tục đầu tư thêm khoảng 6 triệu USD để mở rộng hạ tầng tính toán trong nước.
Lớp thứ hai là lớp mô hình AI. MISA sẽ hợp tác với các tập đoàn công nghệ lớn để xây dựng mô hình AI và tinh chỉnh theo dữ liệu, bài toán của Việt Nam. Tất cả mô hình đều được vận hành tại Việt Nam để đảm bảo dữ liệu không bị chuyển ra nước ngoài - điều mà nhiều doanh nghiệp và cơ quan nhà nước rất quan tâm.
Lớp thứ ba và thứ tư là dịch vụ AI và ứng dụng AI. Trên nền hai lớp hạ tầng trên, MISA sẽ phát triển các dịch vụ và ứng dụng AI phục vụ doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế, từ quản trị, bán hàng, tài chính đến các mô hình vận hành doanh nghiệp thông minh.
Bốn lớp hạ tầng đó là nền móng để MISA vừa làm chủ AI trong nước, vừa đủ năng lực tham gia cuộc chơi toàn cầu, nơi mọi thứ đang được viết lại và mọi vị trí đang được sắp xếp lại.
MISA đã xây dựng hai viện nghiên cứu từ lâu: một viện chuyên về đổi mới doanh nghiệp - nghiên cứu quy trình, phương pháp quản trị; và một viện tập trung vào công nghệ để cập nhật các tiến bộ mới nhất để đưa vào sản phẩm. Cả nghìn kỹ sư của MISA cũng đã chuyển hướng sang AI.


Dự Luật AI đang thúc đẩy làm chủ hạ tầng, dữ liệu và nghiên cứu. Theo ông, điều này sẽ tác động như thế nào đến khả năng phát triển sản phẩm AI và cạnh tranh của doanh nghiệp Việt?
Theo tôi, việc “làm chủ” mà chúng ta đang hướng tới hiện nay là: làm chủ dữ liệu, làm chủ không gian số và hạn chế phụ thuộc vào hạ tầng nước ngoài.
Về lâu dài, Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển những mô hình ngôn ngữ của riêng mình, chủ động tiếp cận hệ thống thiết bị, hạ tầng và khuyến khích nghiên cứu sâu hơn. Yêu cầu tiếp theo là làm chủ không gian số và dữ liệu quốc gia thì Chính phủ cũng đã quy định dữ liệu phải được tạo ra, xử lý và lưu trữ tại Việt Nam để bảo vệ an ninh quốc gia. Vì, nếu dữ liệu của Việt Nam không được chính chúng ta tiêu chuẩn hóa, tổ chức và phân quyền khai thác, mà lại phụ thuộc vào hệ thống của nhà cung cấp nước ngoài, sẽ nảy sinh hai rủi ro lớn. Một là không có nguồn dữ liệu chất lượng cao để thúc đẩy sự phát triển của AI trong nước. Hai là nếu việc hợp tác quốc tế không suôn sẻ, chúng ta cũng không còn nền tảng dữ liệu để tiếp tục phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp hay phục vụ người dân.
Nếu hạ tầng quan trọng như điện, Internet, hệ thống tính toán hay các kênh kết nối bị phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ rất dễ gặp rủi ro. Còn việc làm chủ một số công nghệ cốt lõi như chip hay phần cứng nếu làm được thì tốt, nhưng đó có lẽ là câu chuyện dài hơi hơn.
Ví dụ, từ trước đến nay, Việt Nam chưa sản xuất được CPU hay nhiều thiết bị lõi khác, mà phải nhập từ các hãng nước ngoài. Điều này đúng là tiềm ẩn rủi ro, nhưng tôi cho rằng rủi ro lớn hơn là ngưng trệ hạ tầng Internet, hạ tầng tính toán hay không có điện…, bởi nếu vậy thì chắc chắn mọi hoạt động sẽ bị gián đoạn.
Làm chủ hạ tầng không chỉ để bảo vệ nội lực trong nước mà còn là nền tảng để Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Cùng với “định hướng AI” mà rất nhiều doanh nghiệp Việt đang theo đuổi, khi Luật AI được triển khai, ông hình dung tương lai lĩnh vực AI tại Việt Nam ra sao?
Trong 3 năm tới, AI sẽ được ứng dụng rộng rãi, tràn ngập từ giáo dục, sinh hoạt, lao động đến giải trí. Các doanh nghiệp sẽ tìm hiểu và triển khai AI để nâng cao năng suất lao động, từ đó xã hội sẽ thay đổi sâu sắc. AI sẽ được tích hợp vào các cơ quan nhà nước, giúp tinh giản thủ tục, nâng cao hiệu quả và tính linh hoạt trong phục vụ người dân.
Với tốc độ phát triển công nghệ hiện nay, sự lan tỏa này sẽ diễn ra rất nhanh, chỉ trong vài năm là AI sẽ hiện diện tại tất cả các lĩnh vực, bởi tốc độ tiến bộ của công nghệ này diễn ra rất nhanh. Các công nghệ khác nếu như phải cần 3-5 năm mới thấy được đột phá mới thì AI tiến bộ theo từng năm.
Ví dụ, từ năm 2024 đến năm nay, năng suất lao động tại MISA đã tăng đáng kể. Ở bộ phận lập trình, hiệu suất đã tăng khoảng 40%, các bộ phận khác cũng có kết quả tương tự. Năng suất lao động tổng thể của tổ chức năm nay tăng khoảng 35–45%.
Như vậy, đây rõ ràng là kết quả của sự trưởng thành về năng lực và công nghệ, vì năng lực con người không thể tiến bộ vượt bậc chỉ trong một năm. Đồng thời cũng dễ dàng tính được phần tăng trưởng hiệu suất đến từ sự trưởng thành của năng lực công nghệ.
Chúng tôi đặt mục tiêu trong 5 năm tới gần như chuyển dịch hoàn toàn sang mô hình cung cấp AI như một dịch vụ (AI as a Service) chiếm 80–90% sản phẩm. Lộ trình chuyển đổi được thực hiện từng bước.

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 49-2025 phát hành ngày 06/12/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-49-2025.html

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/luat-ai-mo-ra-nhieu-co-hoi-cho-doanh-nghiep-viet.htm












