Luật Báo chí (sửa đổi) phải là hành lang pháp lý bảo vệ người làm báo và giữ vững niềm tin công chúng
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV Quốc hội sẽ xem xét và cho ý kiến Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi). Dự thảo Luật lần này thể hiện bước chuyển tư duy mạnh mẽ trong quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho báo chí phát triển chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại trong kỷ nguyên số.
Báo và Phát thanh, Truyền hình Khánh Hòa phỏng vấn đồng chí Lê Hữu Trí - Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Phụ trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa, thành viên Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội về nội dung này.

Đồng chí Lê Hữu Trí.
- Thưa đồng chí, vì sao việc sửa đổi Luật Báo chí 2016 được đặt ra vào thời điểm này?
- Sau hơn 8 năm thi hành, Luật Báo chí 2016 đã phát huy vai trò quan trọng, nhưng thực tiễn phát triển nhanh của công nghệ truyền thông và sự bùng nổ thông tin trên không gian mạng đã bộc lộ nhiều bất cập. Nhiều quy định không còn phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số, mô hình quản lý, hoạt động của báo chí, cũng như yêu cầu bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật.
Việc sửa đổi luật lần này nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng nền báo chí chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, khắc phục khoảng trống pháp lý, đồng thời tạo cơ sở pháp lý bảo vệ người làm báo và quyền tiếp cận thông tin của công dân.
- Những điểm mới đáng chú ý nhất của dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) là gì, thưa đồng chí?
- Có thể khái quát một số điểm nổi bật của dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) như sau:
Thứ nhất, dự thảo lần này quy định rõ khái niệm và phân biệt giữa báo và tạp chí, tránh tình trạng cơ quan tạp chí hoạt động như báo, khắc phục hiện tượng “báo hóa” vốn gây bức xúc lâu nay.
Thứ hai, bổ sung quy định về hoạt động báo chí trên không gian mạng, như xuất bản báo chí trên nền tảng số, kênh nội dung mạng xã hội và nền tảng số báo chí quốc gia. Đây là điểm mới có tính đột phá, giúp báo chí Việt Nam chủ động hội nhập, tăng cường chủ quyền thông tin, thích ứng với xu thế chuyển đổi số.
Thứ ba, tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương trong quản lý báo chí, đồng thời quy định cụ thể hơn về cơ quan thường trú, văn phòng đại diện, phóng viên thường trú – nhằm khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý, bảo đảm hoạt động báo chí chuyên nghiệp, đúng pháp luật.
Thứ tư, dự thảo mở rộng vai trò giám sát, xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp của Hội Nhà báo Việt Nam, góp phần nâng cao kỷ cương nghề nghiệp và uy tín của đội ngũ làm báo.
- Có ý kiến cho rằng báo chí chính thống đang bị “lép vế” trước mạng xã hội về tốc độ, mức độ lan tỏa và khả năng tiếp cận công chúng. Theo đồng chí, Luật lần này cần bổ sung gì để khắc phục tình trạng đó?
-Đây là một thực tế rõ ràng. Mạng xã hội có ưu thế về tốc độ, tính tương tác, nhưng lại thiếu kiểm chứng và dễ bị lợi dụng để phát tán thông tin sai lệch. Báo chí chính thống có lợi thế về tính xác thực, tính định hướng và trách nhiệm xã hội nhưng đang gặp khó khăn về nguồn lực, cơ chế tài chính và mô hình hoạt động.
Do đó, Luật Báo chí (sửa đổi) cần tạo hành lang pháp lý giúp báo chí chính thống phát triển mạnh mẽ trên nền tảng số, đồng thời trao cơ chế để các cơ quan báo chí chủ động tham gia, thậm chí dẫn dắt không gian truyền thông mạng.
Cụ thể, dự thảo đã bổ sung quy định về “nền tảng số báo chí quốc gia”, đầu tư công cụ giám sát thông tin trên mạng, cũng như cho phép xuất bản báo chí trên không gian mạng - những chính sách rất quan trọng để báo chí Việt Nam giữ vững vị thế chủ đạo, định hướng dư luận trong thời đại số.
- Một vấn đề nóng khác là tình trạng “báo hóa” tạp chí điện tử và trang tin tổng hợp. Theo đồng chí, có nên siết chặt hơn không?
-Theo tôi, phải siết chặt và quản lý nghiêm túc hơn. Thực tế cho thấy, không ít tạp chí điện tử và trang tin tổng hợp đã “vượt rào”, hoạt động như báo điện tử, đăng tải tin tức, điều tra, phóng sự - vượt ngoài tôn chỉ, mục đích.
Luật sửa đổi lần này đã có bước tiến lớn khi định nghĩa lại rõ ràng giữa “báo”, “tạp chí” và “bản tin thông tấn”, đồng thời bổ sung các quy định về điều kiện cấp phép, thu hồi giấy phép, chấm dứt hoạt động nếu vi phạm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, việc quy định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ quản cũng rất quan trọng - bởi nếu buông lỏng quản lý, thì tình trạng thương mại hóa, “tư nhân hóa” báo chí sẽ còn diễn biến phức tạp. Mục tiêu không phải là hạn chế, mà là giữ gìn tính chuẩn mực, sự tin cậy và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí.
- Trong bối cảnh tự do ngôn luận ngày càng mở rộng, theo đồng chí, làm thế nào để vừa bảo đảm quyền tự do báo chí, vừa giữ kỷ luật, kỷ cương thông tin trên không gian mạng?
-Đây chính là thách thức lớn nhất hiện nay. Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) khẳng định bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, đồng thời đặt ra giới hạn pháp lý rõ ràng để không ai có thể lợi dụng quyền tự do đó xâm hại lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Luật cũng bổ sung các quy định về hành vi bị nghiêm cấm, như đăng tải thông tin sai sự thật, xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ dân tộc, hoặc phương hại đến quan hệ đối ngoại. Đồng thời, Nhà nước sẽ đầu tư hệ thống công cụ giám sát hoạt động báo chí trên không gian mạng, đảm bảo việc phát hiện, xử lý vi phạm kịp thời, minh bạch, đúng pháp luật.
“Tự do phải gắn liền với trách nhiệm, và kỷ luật thông tin chính là yếu tố để tự do được bảo vệ bền vững.”
- Đồng chí kỳ vọng gì khi Luật Báo chí (sửa đổi) được Quốc hội thông qua?
-Tôi kỳ vọng đây sẽ là một luật mẫu mực về đổi mới tư duy lập pháp, vừa bảo đảm quản lý hiệu quả, vừa khuyến khích sáng tạo.
Luật cần tạo hành lang pháp lý vững chắc để người làm báo yên tâm hành nghề, được bảo vệ trước rủi ro nghề nghiệp, đồng thời nâng cao trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp, và tính chuyên nghiệp.
Quan trọng hơn, luật này sẽ củng cố niềm tin của công chúng vào báo chí cách mạng Việt Nam - một nền báo chí chính nghĩa, nhân văn, hiện đại, luôn đồng hành cùng dân tộc và đất nước.
- Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
TRÍ NGHĨA (Thực hiện)













