Luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm: Cần cân bằng lợi ích, kiểm soát rủi ro

Luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm được Chính phủ đề xuất như một giải pháp mạnh nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế và Tài chính và các đại biểu Quốc hội cho rằng, cần có những quy định chặt chẽ, minh bạch, đảm bảo hài hòa lợi ích của tổ chức tín dụng và người dân, doanh nghiệp.

Chỉ được thu giữ TSBĐ khi đã có thỏa thuận

Ngày 29-5-2025 Quốc hội sẽ thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng. Một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm trong dự thảo luật này là đề xuất luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của các tổ chức tín dụng (TCTD).

Tờ trình của Chính phủ cho biết, Luật các TCTD năm 2024 đã chính thức luật hóa phần lớn nội dung của Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu (Nghị quyết 42). Tuy nhiên, vẫn còn ba nội dung quan trọng chưa được đưa vào luật, gồm: quyền thu giữ TSBĐ, kê biên TSBĐ và hoàn trả vật chứng trong các vụ án hình sự.

Trên thực tế, sau khi luật này có hiệu lực, việc xử lý nợ xấu tiếp tục là điểm nghẽn được phản ánh tại nhiều cuộc làm việc của Thường trực Chính phủ với các doanh nghiệp và ngân hàng. Những vướng mắc trong xử lý TSBĐ đang tác động trực tiếp đến khả năng giảm lãi suất và cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.

Trong khi đó, cơ chế thu giữ TSBĐ đã được thực hiện có hiệu quả trong thời gian thí điểm Nghị quyết 42. Vì vậy, Chính phủ đề xuất luật hóa quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, thống nhất, giúp xử lý nợ xấu nhanh chóng, giảm chi phí, hạn chế rủi ro hệ thống và cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc hạ lãi suất.

Một trong những điểm được Ủy ban Kinh tế và Tài chính đặc biệt lưu ý là dự thảo luật đã không kế thừa hai điều kiện quan trọng từng được quy định tại Nghị quyết 42. Đó là “giao dịch bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật” và “TSBĐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa có thẩm quyền”.

Theo đó, Chính phủ bổ sung điều 198a, quy định cụ thể về quyền thu giữ TSBĐ trong quá trình xử lý nợ xấu, với ba nội dung chính.

Thứ nhất, TCTD và tổ chức mua bán, xử lý nợ sẽ được phép thu giữ TSBĐ, nhưng chỉ khi hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận rõ ràng rằng bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm được quyền thu giữ tài sản khi khoản nợ trở thành nợ xấu. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận giữa các bên, phù hợp với Hiến pháp và Bộ luật Dân sự 2015.

Thứ hai, quyền thu giữ không được hiểu là đơn phương hay vô điều kiện. Việc thực hiện thu giữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện, trình tự, thủ tục đã được quy định để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên có nghĩa vụ, TCTD và các bên liên quan. Cụ thể, hoạt động thu giữ chỉ được phép triển khai khi: phát sinh điều kiện xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật; hợp đồng có điều khoản cho phép thu giữ; biện pháp bảo đảm đã có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba; TSBĐ không bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên hay đình chỉ theo quy định pháp luật...

Thứ ba, để ngăn chặn việc lạm quyền thu giữ, quy định cũng nêu rõ: TCTD không được sử dụng các biện pháp trái pháp luật hoặc vi phạm đạo đức xã hội. Việc ủy quyền thu giữ chỉ được thực hiện đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc chính TCTD đó, hoặc tổ chức được phép nhận chuyển giao bắt buộc. Đồng thời, các TCTD và tổ chức xử lý nợ phải xây dựng quy định nội bộ cụ thể về hoạt động thu giữ TSBĐ, bao gồm cả cơ chế ủy quyền.

Hai điều kiện bị “bỏ sót” so với Nghị quyết 42

Ủy ban Kinh tế và Tài chính (trong báo cáo thẩm tra), và các đại biểu Quốc hội (trong phiên họp tổ về dự thảo luật này) đã thể hiện sự ủng hộ với đề xuất của Chính phủ. Quan điểm chung là nợ xấu dù phát sinh từ nguyên nhân nào thì khách hàng vay vẫn phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo các thỏa thuận với TCTD, do đó cần thiết luật hóa quyền thu giữ TSBĐ. Mục tiêu cuối cùng là đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu, giảm chi phí xử lý TSBĐ, từ đó góp phần nâng cao mức độ an toàn hệ thống, giảm chi phí các khoản cấp tín dụng, hạ lãi suất, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cả Ủy ban Kinh tế và Tài chính và các đại biểu Quốc hội đều nhấn mạnh, quyền thu giữ TSBĐ không thể là một quyền “đương nhiên” của TCTD, mà phải được xác lập rõ ràng trên cơ sở hợp đồng bảo đảm giữa các bên, tuân thủ nguyên tắc tự do, tự nguyện trong giao dịch dân sự. Việc luật hóa nội dung này cần được thiết kế chặt chẽ, kiểm soát tốt nguy cơ lạm quyền, đồng thời bảo vệ đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và các chủ thể có liên quan đến tài sản.

Một trong những điểm được Ủy ban Kinh tế và Tài chính đặc biệt lưu ý là dự thảo luật đã không kế thừa hai điều kiện quan trọng từng được quy định tại Nghị quyết 42. Đó là “giao dịch bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật” và “TSBĐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa có thẩm quyền”. Những điều kiện này nhằm bảo đảm việc thu giữ TSBĐ không làm phát sinh khiếu kiện phức tạp.

Theo giải trình của Chính phủ, việc loại bỏ điều kiện về “tài sản tranh chấp” nhằm tránh hiện tượng khách hàng cố tình hợp thức hóa tranh chấp với bên thứ ba nhằm trì hoãn, ngăn chặn hoạt động thu giữ của TCTD. Tuy vậy, Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, cần phải cân nhắc lợi ích không chỉ từ phía TCTD, mà cả các bên có quyền và lợi ích liên quan đến TSBĐ, gồm cả người có quyền hưởng dụng phát sinh trên cơ sở hợp đồng thuê, mượn tài sản. Nếu không quy định rõ, có thể dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tài sản hợp pháp, phát sinh khiếu nại, khiếu kiện kéo dài. Quy định chi tiết nội hàm “tranh chấp” và phương thức xác định tình trạng pháp lý của TSBĐ có thể giúp khắc phục vấn đề này.

Cảnh báo nguy cơ “ép buộc” trong giao kết hợp đồng

Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị có biện pháp phòng tránh trường hợp TCTD đặt điều kiện bắt buộc khách hàng phải đồng ý điều khoản về quyền thu giữ TSBĐ mới ký hợp đồng cấp tín dụng. “Thực tế bên đi vay khó có thể “thỏa thuận” khách quan, công bằng và dễ “bị ép”, ủy ban này nhận định.

Theo đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường (Hà Nội), quyền thu giữ TSBĐ có thể dẫn tới tình trạng TCTD sẽ chỉ quan tâm đến tài sản bảo đảm mà không quan tâm đến các điều kiện khác để xem xét giải ngân khoản vay. Để ngăn chặn rủi ro này, ông đề nghị bổ sung quy định: TCTD chỉ được thu giữ TSBĐ trong trường hợp khoản vay đó không được vi phạm các quy định về cấp tín dụng.

Đại biểu Nguyễn Như So (Bắc Ninh) cũng đề nghị bổ sung cơ chế giám sát độc lập, hoặc bắt buộc có sự tham gia của cơ quan tư pháp, nhằm tránh lạm dụng quyền thu giữ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, đặc biệt trong các trường hợp TSBĐ có yếu tố cư trú, sinh kế hoặc tranh chấp phát sinh.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD sẽ được Quốc hội xem xét thông qua trong kỳ họp này, dự kiến vào ngày 17-6-2025. Hiện cơ quan chủ trì soạn thảo chưa xác định thời điểm luật có hiệu lực, song Ủy ban Kinh tế và Tài chính đã yêu cầu phải đề xuất cụ thể và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thi hành luật. Một số ý kiến đề nghị luật sớm có hiệu lực để kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong xử lý nợ xấu, góp phần khơi thông nguồn lực tín dụng để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn tới.

Cẩm Hà

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/luat-hoa-quyen-thu-giu-tai-san-bao-dam-can-can-bang-loi-ich-kiem-soat-rui-ro/