Luật Thủ đô năm 2024 - Quyết sách lập pháp đột phá, khơi thông 'điểm nghẽn' thể chếBài cuối: Kiến tạo xung lực mới cho đất nước phát triển
Sự phát triển của một quốc gia, một địa phương hay một ngành kinh tế đều phụ thuộc vào chất lượng của thể chế. Tại Việt Nam, 'bài toán' thể chế đã và đang đặt ra những thách thức lớn về sự đồng bộ, tính khả thi và khả năng khơi thông các nguồn lực.
Trong bối cảnh đó, việc Quốc hội khóa XV thông qua Luật Thủ đô năm 2024 không chỉ là một sự kiện lập pháp đơn thuần, mà còn là một minh chứng mạnh mẽ cho tinh thần đổi mới, kiến tạo của cơ quan quyền lực cao nhất.

“Điểm nhấn” lập pháp 80 năm Quốc hội Việt Nam
Qua gần một năm có hiệu lực thi hành, có thể khẳng định, Luật Thủ đô năm 2024 là bước thể chế hóa trực tiếp và mạnh mẽ nhất Nghị quyết số 15-NQ/TƯ ngày 5-5-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử 80 năm Quốc hội Việt Nam, một đạo luật riêng về một địa phương được hoàn thiện, bổ sung với quy mô và mức độ vượt trội, xác lập một mô hình pháp lý mang tính đột phá, cung cấp "lời giải" điển hình cho nhiều "điểm nghẽn" thể chế đang đặt ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Từ đây, Luật Thủ đô năm 2024 xứng đáng được coi là "quả đấm thép" đầu tiên và mạnh mẽ nhất của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XV, mở ra hành lang pháp lý kiến tạo xung lực mới cho phát triển.
Tính đột phá của Luật Thủ đô năm 2024 nằm ở khả năng thiết lập một khung pháp lý đặc thù, vượt trội, cho phép Thủ đô được áp dụng các cơ chế khác biệt, mạnh mẽ hơn so với hệ thống pháp luật.
Cụ thể, Luật cho phép các cơ chế sau được áp dụng vượt trội như cho phép Hà Nội xây dựng và triển khai các cơ chế thử nghiệm đối với công nghệ, sản phẩm, dịch vụ mới trong các lĩnh vực ưu tiên như tài chính, công nghệ, y tế mà không bị ràng buộc bởi các quy định hiện hành, tạo điều kiện cho Thủ đô trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, Luật quy định về thẩm quyền và cơ chế đặc thù trong việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch và đầu tư xây dựng công trình ngầm, giúp giải quyết bài toán tắc nghẽn giao thông và thiếu diện tích công cộng trên mặt đất, điều vốn bị vướng mắc bởi nhiều quy định về đất đai và đầu tư.
Điểm nổi bật, Nghị quyết 15-NQ/TƯ xác định, Hà Nội phải hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền Thủ đô khoa học, tinh gọn. Luật Thủ đô năm 2024 đã chính thức hoàn thiện khung khổ pháp lý cho việc loại bỏ một cấp trung gian có chức năng chồng chéo, giúp bộ máy hành chính hoạt động thông suốt, nhanh chóng, tăng tính chịu trách nhiệm cá nhân. Với chính quyền địa phương 2 cấp, các quyết định quản lý hành chính, trật tự đô thị được đưa ra và thực hiện kịp thời, phù hợp với tính chất của chính quyền đô thị, là tiền đề để cả nước chính thức áp dụng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp từ ngày 1-7-2025.
Luật Thủ đô năm 2024 còn là đỉnh cao của việc phân cấp, phân quyền cho HĐND và UBND thành phố Hà Nội trên hầu hết các lĩnh vực: Đầu tư, tài chính, ngân sách, đất đai, quy hoạch, tổ chức bộ máy và nhân sự. Trong đó, Hà Nội được chủ động quyết định việc sử dụng một phần ngân sách địa phương để thực hiện một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc thù (phát triển công nghiệp văn hóa, công nghệ cao…) và được giữ lại một phần nguồn thu từ các cơ chế đặc thù để tái đầu tư.
Luật cũng cho phép HĐND, UBND thành phố quyết định chính sách thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia, nhà khoa học theo hiệu quả công việc, khắc phục "điểm nghẽn" về cơ chế đãi ngộ, thu hút nhân tài, một vấn đề mà nhiều địa phương khác đang gặp phải.

Quang cảnh phiên khai mạc kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV. Ảnh: media.quochoi.vn
Đổi mới trong tư duy và hành động lập pháp
Thành tựu của Luật Thủ đô năm 2024 là kết quả của sự đổi mới trong tư duy và hành động lập pháp của Quốc hội khóa XV. Từ kinh nghiệm đó, Quốc hội đã thể chế hóa kịp thời đường lối của Trung ương, nhất là "Bộ tứ trụ cột" chính sách; thể hiện khả năng phản ứng nhanh và chính xác trước các yêu cầu phát triển mới.
Đáng chú ý, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân và các luật liên quan đến đầu tư nhằm thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TƯ ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bảo vệ quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Bên cạnh đó, việc tiếp tục xem xét dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai tại kỳ họp thứ mười là những nỗ lực “khổng lồ” của Quốc hội nhằm tháo gỡ các vướng mắc kéo dài hàng thập kỷ, đặc biệt liên quan đến định giá đất, thu hồi đất và quyền sử dụng đất.
Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho rằng, việc xem xét, thông qua số lượng các dự án luật, nghị quyết thời gian qua đã thể hiện sự đổi mới tư duy lập pháp, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về “đổi mới tư duy pháp luật, cải cách thể chế, bảo đảm pháp luật đi trước, mở đường cho phát triển”.
Trong thực tế hệ thống pháp luật, "bài toán" thể chế vẫn còn nhiều "điểm nghẽn" dai dẳng, cần được Quốc hội tiếp tục giải quyết bằng tinh thần đột phá tương tự. Trong đó, dù đã có nhiều quy định về phân cấp, phân quyền, nhưng các văn bản dưới luật lại không cụ thể hóa rõ ràng, thậm chí còn thu hẹp phạm vi. Sự phân quyền không rõ ràng về mặt định lượng và định tính dẫn đến tâm lý "sợ trách nhiệm" của cán bộ các cấp; việc phân cấp, phân quyền vẫn mang tính bị động, chờ Trung ương ban hành hoặc cho phép, thay vì để địa phương chủ động đề xuất và tự chịu trách nhiệm.
Từ những thực tế trên, tại kỳ họp thứ mười, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 53 dự án luật, nghị quyết, trong đó có 49 luật. Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định, đây là khối lượng công tác lập pháp lớn nhất trong lịch sử các kỳ họp Quốc hội, là minh chứng sinh động cho tinh thần pháp luật phải đi trước một bước, mở đường cho đổi mới sáng tạo, lấy cuộc sống và lợi ích của nhân dân làm thước đo của chính sách.
Các dự án luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ mười đã bao quát hầu hết các lĩnh vực trọng yếu, nhiều vấn đề mới, biến động liên tục; kịp thời thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết mới của Đảng; tập trung tháo gỡ “điểm nghẽn” thể chế, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, quy hoạch, xây dựng, môi trường, năng lượng; lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản…

Luật Thủ đô năm 2024 là một thành tựu đáng tự hào, đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của Quốc hội Việt Nam. Ảnh: media.quochoi.vn
Nhân rộng các cơ chế thành công trong Luật Thủ đô
Để Quốc hội có thể tạo thêm nhiều "quả đấm thép" pháp lý như Luật Thủ đô 2024, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 66-NQ/TƯ ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, tạo xung lực mới cho sự phát triển của đất nước, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp.
Trong đó, Quốc hội cần nghiên cứu xây dựng các luật khung hoặc nghị quyết đặc thù về cơ chế, chính sách phát triển cho các ngành, vùng kinh tế trọng điểm khác. Nhân rộng các cơ chế thành công trong Luật Thủ đô năm 2024 (cơ chế TOD, thu nhập tăng thêm cho nhân lực chất lượng cao, thử nghiệm có kiểm soát…) cho các thành phố cấp I và các khu kinh tế ven biển có vai trò đầu tàu.
Bên cạnh đó, cho phép các địa phương có đủ năng lực chủ động đề xuất cơ chế đặc thù của mình lên Quốc hội hoặc Chính phủ, kèm theo cam kết trách nhiệm cụ thể; song song với tạo cơ chế phân cấp, phân quyền theo hướng theo nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”…
Quốc hội cần duy trì cách làm thời gian qua, đó là văn bản hướng dẫn thi hành được trình song song với hồ sơ dự án luật, bảo đảm các quy định pháp luật đi ngay vào thực tiễn cuộc sống khi có hiệu lực.
Luật Thủ đô năm 2024 là một thành tựu đáng tự hào, đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của Quốc hội Việt Nam từ công tác lập pháp mang tính chung chung sang lập pháp chiến lược, giải quyết vấn đề. Đây không chỉ là nền tảng cho sự phát triển vượt bậc của Hà Nội, mà còn là “bản thiết kế” cho việc giải quyết các "điểm nghẽn" thể chế ở cấp quốc gia.
Bằng cách tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền một cách rõ ràng và định lượng, kiểm soát chất lượng văn bản hướng dẫn, tin tưởng rằng, Quốc hội sẽ tiếp tục kiến tạo nên một hệ thống pháp lý đủ mạnh, sát thực tiễn để khơi thông mọi nguồn lực, tạo nên xung lực phát triển bền vững và thịnh vượng cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới.












