Luật tương trợ tư pháp: Đảm bảo quyền không bị tra tấn, bức cung...
Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 sau hơn 17 năm thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với bối cảnh hội nhập và hợp tác quốc tế. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) cho rằng, việc ban hành Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự là cần thiết, bảo đảm quyền con người, ngăn tra tấn, bức cung.
Sáng 27/10, Quốc hội thảo luận về một số vấn đề lớn trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự và Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
Theo các đại biểu, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, sau hơn 17 năm thực hiện, đã bộc lộ một số bất cập, không còn phù hợp với bối cảnh hội nhập và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, việc ban hành Luật Tương trợ tư pháp về hình sự và dân sự là cần thiết, kịp thời và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Đại biểu Trần Thị Thu Hằng, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho biết, qua nghiên cứu dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự cùng các báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và tài liệu liên quan, bà cơ bản thống nhất với nhiều nội dung của dự thảo.
Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn, đại biểu nêu một số đề xuất cụ thể. Trước hết, về nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự (Điều 5), đại biểu đánh giá dự thảo đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ; bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp 2013 và chủ trương của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, dự thảo chưa ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền không bị tra tấn, quyền không bị đối xử vô nhân đạo. Trong bối cảnh Việt Nam là thành viên Công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc, các yêu cầu tương trợ quốc tế có thể liên quan trực tiếp đến thân thể, tự do của công dân hoặc người cư trú tại Việt Nam.

Đại biểu Trần Thị Thu Hằng, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng
Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền được đối xử nhân đạo, tôn trọng nhân phẩm để Việt Nam có cơ sở từ chối những yêu cầu tương trợ có nguy cơ dẫn đến bức cung, tra tấn hoặc phân biệt đối xử vì lý do chính trị, sắc tộc, tôn giáo.
Đại biểu cũng đề nghị bổ sung biện pháp “đối chất” – một hoạt động tố tụng quan trọng nhưng chưa được nêu tại Điều 8; đồng thời sửa đổi, bổ sung quy định “khám xét, thu giữ tang vật, tài liệu liên quan đến vụ án” và bổ sung thêm hình thức “xử lý tài sản” để bảo đảm đầy đủ, thuận lợi trong hợp tác quốc tế.
Cuối cùng, về cơ quan Trung ương và quy trình thủ tục, đại biểu Trần Thị Thu Hằng đồng tình với việc giao Viện Kiểm sát nhân dân tối cao làm đầu mối thực hiện tương trợ tư pháp hình sự, đảm bảo tính thống nhất và kiểm soát rủi ro chính trị. Tuy nhiên, bà đề nghị quy định rõ thời hạn phản hồi giữa các cơ quan phối hợp như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao…
Còn đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn Đồng Tháp) bày tỏ sự tán thành với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về dự án Luật Tương trợ tư pháp về hình sự. Ông cho rằng, sau hơn 17 năm thực hiện, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đã bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với bối cảnh hội nhập và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, nên việc ban hành luật mới là cần thiết, kịp thời và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Về nguyên tắc thực hiện tương trợ tư pháp hình sự, đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước chống tra tấn và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.
Đối với hình thức tương trợ tư pháp hình sự, đại biểu đề xuất bổ sung các quy định cụ thể về xác minh, truy tìm, phong tỏa, thu hồi tài sản có yếu tố nước ngoài, nhất là trong các vụ án tham nhũng, rửa tiền, tội phạm ma túy và tội phạm tài chính xuyên quốc gia. Ông nhấn mạnh, hiện nay các quy định về thu hồi tài sản tội phạm đang nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, chưa được quy định tập trung, rõ ràng trong luật, gây khó khăn cho công tác thực thi.
Về cơ quan trung ương trong tương trợ tư pháp hình sự, đại biểu Phạm Văn Hòa đồng tình với quy định Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương, song đề nghị làm rõ hơn trách nhiệm phối hợp giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan. Cụ thể, cần quy định thời hạn phản hồi rõ ràng khi tiếp nhận và xử lý yêu cầu tương trợ, tránh tình trạng chậm trễ, kéo dài, đồng thời thiết lập cơ chế thông tin hai chiều để Viện Kiểm sát có thể nắm được kết quả thực hiện từ các cơ quan phối hợp.

Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn Đồng Tháp) phát biểu.
Về chi phí tương trợ tư pháp hình sự, đại biểu cho rằng quy định bên được yêu cầu chịu chi phí là hợp lý, tuy nhiên cần bổ sung cơ chế chia sẻ chi phí đối với những yêu cầu mang tính chất song phương, hợp tác đặc biệt hoặc phục vụ lợi ích chung, trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, nhằm đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với các điều ước quốc tế.
Cuối cùng, về trách nhiệm báo cáo, theo dõi và đánh giá, đại biểu đề nghị quy định rõ trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong việc tổng hợp, báo cáo hằng năm về tình hình tương trợ tư pháp hình sự. Đồng thời, đề nghị Quốc hội và Ủy ban Tư pháp thực hiện giám sát chuyên đề định kỳ để kịp thời phát hiện và tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện luật.













