Mạch nguồn chảy mãi

Tám mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), chặng đường lịch sử ấy như một bản hùng ca vĩ đại.

Một bản hùng ca được dệt nên không chỉ bởi những chiến công hiển hách trên các mặt trận, mà còn bởi biết bao hy sinh thầm lặng của hàng triệu người con đất Việt. Câu chuyện về gia đình Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ngọt là một mạch nguồn về sự cống hiến của một gia đình bình dị, góp phần tạo nên vóc hình đất nước.

Tân Ninh - cội nguồn đất mẹ

Có những vùng quê mà từng tấc đất dường như thấm đẫm huyền thoại, từng tên làng, tên núi, tên sông đều gợi nhắc về một quá khứ hào hùng. Tân Ninh, một xã nhỏ bình yên bên dòng sông Mã của tỉnh Thanh Hóa là một vùng quê như thế. Mảnh đất này đã đi vào lịch sử dân tộc với những trang vàng chói lọi trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Cũng chính nơi đây, tại ngôi nhà 3 gian đơn sơ ở thôn Thái Bình (xã Thái Hòa, huyện Triệu Sơn cũ), Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ngọt đã lặng lẽ sống một cuộc đời phi thường, một cuộc đời mà sự hy sinh của mẹ và gia đình đã hòa vào dòng chảy lịch sử của dân tộc.

 Con dâu cả Mai Thị Quýnh bên bàn thờ Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ngọt và hai liệt sĩ.

Con dâu cả Mai Thị Quýnh bên bàn thờ Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ngọt và hai liệt sĩ.

Cháu đích tôn dòng họ Hoàng Duy-anh Hoàng Duy Dương bên hồ sơ, giấy tờ của dòng họ Hoàng Duy thôn Thái Bình, xã Tân Ninh, tỉnh Thanh Hóa.

Cháu đích tôn dòng họ Hoàng Duy-anh Hoàng Duy Dương bên hồ sơ, giấy tờ của dòng họ Hoàng Duy thôn Thái Bình, xã Tân Ninh, tỉnh Thanh Hóa.

Mẹ Nguyễn Thị Ngọt về cõi vĩnh hằng đến nay đã gần 40 năm. Mẹ không để lại một tấm ảnh chân dung nào, nhưng hình ảnh mẹ vẫn sống động trong ký ức người dân quê nhà Tân Ninh: Một người phụ nữ Việt Nam điển hình, tần tảo, chịu thương chịu khó, giàu lòng nhân hậu và chan chứa tình yêu Tổ quốc. Tình yêu ấy được mẹ vun trồng từ những ngày đầu đi theo cách mạng, được tiếp lửa từ người bạn đời-ông Hoàng Duy Biên, một chiến sĩ kiên trung trong kháng chiến chống Pháp.

Hòa bình lập lại trên miền Bắc nhưng đất nước vẫn còn chia cắt. Ông Biên trở về sau những năm tháng chiến đấu, sức khỏe suy kiệt. Gánh nặng lại đè lên đôi vai gầy của mẹ. Một tay mẹ quán xuyến việc đồng áng, một tay nuôi dạy 7 người con (4 trai, 3 gái) khôn lớn trưởng thành. Những bài học đầu tiên mẹ dạy không phải là mặt chữ, mà là tình yêu nước, là bổn phận làm người trước vận mệnh non sông. Lời mẹ thường dặn như một lời ru: “Nhà mình nợ nước thù nhà. Các con lớn lên phải biết lo đền đáp”.

Lời dặn ấy thấm sâu vào tâm khảm những người con. Để rồi, khi Tổ quốc cất tiếng gọi, cả 4 người con trai của mẹ đã không một chút do dự, lần lượt lên đường ra mặt trận. Năm 1972, khi 3 người em đang ở chiến trường, người anh cả Hoàng Duy Tuyên, dù được các em gửi gắm ở lại chăm sóc cha mẹ, dù đã nhận giấy báo trúng tuyển vào Trường Đo đạc, Bản đồ của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, vẫn quyết định gác lại giấc mơ giảng đường, khoác ba lô ra chiến trường. Người anh cả tiếp bước các em, để rồi cả 4 người con trai của mẹ Ngọt: Hoàng Duy Viên, Hoàng Duy Cương, Hoàng Duy Gắng và Hoàng Duy Tuyên đều ra mặt trận.

Về lại thôn Thái Bình, xã Tân Ninh, tôi gặp ông Hoàng Bá Quý, người được coi là bậc lão thành của xã, năm nay đã hơn 80 tuổi, với 60 năm tuổi Đảng. Trầm ngâm nhấp chén trà, ông kể: “Ngày ấy, tôi nhập ngũ vào Bộ tư lệnh 559 sau anh Cương 3 năm. Gia đình anh Cương khi ấy có 3 người con trai đều xung phong ra mặt trận. Sau này tôi mới biết anh Cương và anh Gắng đều hy sinh vào tháng 5-1968. Quê tôi khi đó tuy nghèo nhưng ý chí đánh giặc thì cháy ngùn ngụt khắp xóm làng...”.

Ông Hoàng Bá Quý (bên phải), thôn Thái Bình, xã Tân Ninh, tỉnh Thanh Hóa kể về những ngày thanh niên của quê hương nô nức xung phong ra chiến trường đánh Mỹ.

Ông Hoàng Bá Quý (bên phải), thôn Thái Bình, xã Tân Ninh, tỉnh Thanh Hóa kể về những ngày thanh niên của quê hương nô nức xung phong ra chiến trường đánh Mỹ.

Trong chiến tranh, ngôi nhà nhỏ ở thôn Thái Bình vắng bóng những người con trai. Chỉ còn lại mẹ, người cha già và các cô con gái. Mỗi bữa cơm, mẹ vẫn đặt thêm 4 đôi đũa, như thể các con vẫn đang quây quần bên mâm cơm gia đình. Đêm đêm, dưới ánh đèn dầu leo lét, mẹ ngồi vá lại từng tấm áo lính đã sờn vai, gửi gắm vào đó tất cả tình thương và hy vọng. Sự cống hiến của gia đình mẹ được Đảng, Nhà nước ghi nhận, tặng Bảng vàng danh dự, sự vinh danh cao quý dành cho một gia đình đã hiến dâng những người con ưu tú cho Tổ quốc.

Tháng năm bi tráng

Chiến tranh, với sự tàn khốc của nó, không bao giờ là một bản anh hùng ca toàn màu hồng. Với gia đình mẹ Ngọt, tháng 5-1968 là một chương bi tráng không thể nào quên.

Ngày 7-5, người con út Hoàng Duy Gắng, Trung sĩ, Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 16 Đặc công của Sư đoàn 1, Mặt trận B3, đã anh dũng hy sinh trong một trận đánh ác liệt khi mới 19 tuổi. 17 tuổi xung phong nhập ngũ, chỉ một năm sau, anh đã được kết nạp Đảng ngay tại chiến trường, một sự ghi nhận xứng đáng cho lòng dũng cảm và ý chí phấn đấu. Chưa kịp nguôi ngoai nỗi đau mất mát, chỉ 23 ngày sau, ngày 30-5, người con thứ ba, Hạ sĩ Hoàng Duy Cương, chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Bộ tư lệnh 559, cũng ngã xuống trên tuyến lửa Trường Sơn. Hai người con trai, hai người lính trẻ, hy sinh trong cùng một tháng, trên hai chiến trường khác nhau. Họ ra đi khi chưa từng biết đến hạnh phúc lứa đôi. Phải đến năm 1973, tức là 5 năm sau, những tờ giấy báo tử mới đến tay gia đình. 5 năm đằng đẵng ấy là 5 năm của chờ đợi, hy vọng và cả những dự cảm mơ hồ. Ngày nhận tin các con hy sinh, mẹ không khóc. Nỗi đau đã hóa đá, lặng câm trong trái tim mẹ.

Chiến tranh kết thúc, hai người con trai còn lại là ông Hoàng Duy Tuyên và Hoàng Duy Viên trở về nhưng không còn lành lặn. Họ mang trên mình thương tích chiến tranh, trở thành những nhân chứng sống cho sự khốc liệt của một thời máu lửa.

Đất nước thống nhất, gia đình mẹ lại khởi đầu một hành trình mới-hành trình đi tìm đồng đội, tìm hài cốt người thân. Hài cốt liệt sĩ Hoàng Duy Cương may mắn được quy tập về Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Còn liệt sĩ Hoàng Duy Gắng, người Tiểu đội trưởng Đặc công quả cảm đến nay vẫn còn nằm lại đâu đó giữa núi rừng Tây Nguyên. Gia đình đã nhiều lần vào Kon Tum, Đắk Lắk theo những chỉ dẫn mong manh, với tâm nguyện đưa anh về với đất mẹ, nhưng vẫn chưa thành.

Thiếu tướng Hoàng Duy Chiến, Phó tư lệnh Quân khu 4 bên mộ người chú ruột Hoàng Duy Cương hiện đang yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, tháng 7-2025.

Thiếu tướng Hoàng Duy Chiến, Phó tư lệnh Quân khu 4 bên mộ người chú ruột Hoàng Duy Cương hiện đang yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, tháng 7-2025.

Viết tiếp bản hùng ca

Mẹ Nguyễn Thị Ngọt qua đời năm 1986. Mẹ ra đi thanh thản, bởi biết rằng sự hy sinh của mình và của hàng triệu người mẹ Việt Nam đã góp phần tạo nên mùa xuân vĩnh hằng cho đất nước.

Trách nhiệm gìn giữ truyền thống gia đình, hương khói tổ tiên và các liệt sĩ được trao lại cho bà Mai Thị Quýnh, người con dâu cả, vợ của thương binh Hoàng Duy Tuyên. Ở tuổi 95, bà vẫn minh mẫn, là “pho sử sống” của gia đình. Giờ đây, bà truyền lại trách nhiệm ấy cho con trai-anh Hoàng Duy Dương-cháu đích tôn của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ngọt. Là người lính từng tham gia quân ngũ, anh Dương kể: “Theo chân thế hệ của bố và các chú, lứa anh em dòng họ Hoàng Duy chúng tôi có tới 13 người tiếp tục lên đường nhập ngũ. Người thì phục viên, người chuyển ngành, người làm cán bộ cơ sở... nhưng ai cũng tâm niệm phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của ông cha”.

Một minh chứng sống động khác cho sự tiếp nối ấy là Thiếu tướng Hoàng Duy Chiến, Phó tư lệnh Quân khu 4, cháu nội của mẹ Ngọt. Là con trai thương binh Hoàng Duy Tuyên, Hoàng Duy Chiến đã lớn lên trong những lời ru của bà, những câu chuyện về các chú, để rồi tiếp bước trở thành Bộ đội Cụ Hồ.

Tháng Bảy năm nay, tôi theo Thiếu tướng Hoàng Duy Chiến về Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Giữa hàng vạn ngôi mộ trắng, anh lặng lẽ tìm phần mộ chú ruột-liệt sĩ Hoàng Duy Cương. Tự tay lau bia, thắp hương, anh lặng im hồi lâu rồi nghẹn ngào: “Chú Gắng kém chú Cương một tuổi, 17 tuổi đã nhập ngũ. Khi còn sống, bố tôi kể nhiều về sự dũng cảm của chú cùng Đại đội 16 Đặc công. Gia đình đã mấy lần vào Tây Nguyên tìm mà chưa thấy... Nỗi day dứt lớn nhất của thế hệ chúng tôi là chưa thể tìm được hài cốt chú”.

Khoảnh khắc ấy, tôi hiểu rằng, sự hy sinh của thế hệ trước không chỉ là quá khứ mà đã trở thành một phần di sản tinh thần, một động lực thôi thúc thế hệ hôm nay tiếp tục vươn lên, viết tiếp bản hùng ca trong thời đại mới.

Bài và ảnh: HOÀNG KHÁNH TRÌNH

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/mach-nguon-chay-mai-843065