'Mẹ cú con tiên...'

Ngạn ngữ Việt Nam có câu 'Mẹ cú con tiên' (dị bản 'Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con sục sạc').

Sách Từ điển tục ngữ Việt (Nguyễn Đức Dương - NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) thu thập bản “Mẹ cú con tiên; mẹ hiền con xục xạc [?]” nhưng không giải thích mà xếp vào diện “Chưa rõ nghĩa”.

Thực ra, “Mẹ cú con tiên; mẹ hiền con sục sạc”, là dị bản đồng nghĩa với câu “Cha mẹ cú đẻ con tiên”, mà chính Nguyễn Đức Dương đã thu thập và giải thích là “Cha mẹ đều là lũ cú (xấu xí) nhưng con cái sinh ra lại xinh đẹp như tiên đồng. Hay dùng để chỉ rõ sự hơn hẳn của con cái so với cha mẹ nhờ vào hồng phúc của tổ tiên”.

Theo lẽ thường, cha mẹ có ngoại hình tuấn tú, xinh đẹp, tính tình nhu hòa thì sẽ sinh ra những đứa con khôn ngoan, xinh đẹp (Trứng rồng lại nở ra rồng, Hổ phụ sinh hổ tử). Tuy nhiên, không phải không có trường hợp “Mẹ cú con tiên; mẹ hiền con sục sạc”, hay “Cha mẹ cú đẻ con tiên”. Do kết hợp được gen tốt của cha mẹ, nên có trường hợp “cha mẹ” vốn xấu xí, hèn kém, nhưng lại sinh ra được những đứa con thông minh, sáng sủa. Thế nên, tục ngữ Tày cũng có câu nhận xét tương tự: “Mẻ cày rủc, lủc nàng tiên - Mẹ xấu như con cóc, đứa con lại đẹp như nàng tiên”. Việc soạn giả Nguyễn Đức Dương lí giải thêm nguyên nhân là “nhờ vào hồng phúc của tổ tiên”, một mặt trở nên thừa, mặt khác lại thiếu cơ sở khoa học.

Đến câu “Mẹ cú con tiên; mẹ hiền con xục xạc”, có lẽ do không hiểu “xục xạc” là gì, nên soạn giả Nguyễn Đức Dương đánh dấu [?] vào sau từ này và xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”.

Thực ra viết đúng là sục sạc, chứ không phải “xục xạc”. Phương ngữ Thanh Hóa, sục sạc có nghĩa là kẻ phá phách, hỗn láo (ví dụ: Nghịch như sục sạc!). Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) giảng sục sạc là “thô - lỗ, không lễ - phép: Đồ sục - sạc”.

Trái ngược với hiện tượng Mẹ cú đẻ con tiên (Cha mẹ xấu xí đẻ con xinh đẹp), là Mẹ hiền con sục sạc (Cha mẹ hiền từ đẻ con nghịch ngợm, hỗn láo). Đó là hiện tượng “biến dị” của di truyền, con cái không thừa hưởng được gen trội của cha mẹ, không kế thừa được phẩm chất tốt đẹp của cha ông. Thế nên tục ngữ Hán cũng có câu Long sinh cửu tử, cửu tử bất thành long - 龍生有九子,九子不成龍, nghĩa là Rồng sinh chín con, không phải cả chín con đều thành rồng; hay Nhất long sinh cửu chủng, chủng chủng các biệt 一龍生九種, 種種各別 - Một rồng sinh chín con, mỗi con mỗi khác (đồng nghĩa Cha mẹ sinh con trời sinh tính).

Như vậy, câu “Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con sục sạc” không khó hiểu tới mức phải xếp và diện “chưa rõ nghĩa”, và nó là hiện tượng được lí giải bởi di truyền học, chứ không liên quan đến “hồng phúc của tổ tiên”.

Mẫn Nông (CTV)

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/me-cu-con-tien-270888.htm