Mở đường lớn cho 'vua trái cây' sầu riêng vươn xa
Việt Nam đang tính đường dài cho 'vua trái cây' sầu riêng trước áp lực cạnh tranh và yêu cầu ngày càng cao từ thị trường quốc tế.
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng trưởng bùng nổ trong những năm gần đây, với mũi nhọn là sầu riêng – loại trái cây đang giữ vai trò “vua trái cây” trên bàn tiệc nông sản xuất khẩu. Năm 2024, kim ngạch rau quả lập kỷ lục 7,2 tỉ USD, trong đó sầu riêng đóng góp đến 3,2 tỉ USD.
Để giữ vững đà tăng trưởng và nâng tầm giá trị, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) cho quả sầu riêng tươi, nhằm chuẩn hóa chất lượng từ vùng trồng đến thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
'Vua trái cây' sẽ có tiêu chuẩn khắt khe
Dự thảo TCVN áp dụng cho hai giống chính là Ri6 (giống nội) và Dona (giống nhập từ Thái Lan), chiếm khoảng 90–95% diện tích sầu riêng cả nước, cùng một số giống khác sản xuất tại Việt Nam.

Dự thảo về độ chín thu hoạch sầu riêng Ri6 và Dona. Nguồn: Bộ NN&MT
Theo đó, quả sầu riêng phải đảm bảo nguyên vẹn, tươi mới, không sâu bệnh, không có các khuyết tật như cháy múi, sượng, lõi ướt... Tổng khuyết tật cho phép không vượt quá 5% phần ăn được. Ngoài hình dạng, màu sắc, mùi vị, trọng lượng và chỉ tiêu lý hóa, dự thảo đặc biệt quy định cụ thể về độ chín theo vùng.
Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, giống sầu riêng Ri6 thu hoạch 85-100 ngày sau khi nở hoa; giống sầu riêng DONA thu hoạch từ 110-130 ngày sau khi nở hoa.
Ở vùng Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ, sầu riêng Ri6 thu hoạch từ 110 - 120 ngày sau khi nở hoa; sầu riêng DONA thu hoạch từ 125 – 135 ngày sau khi nở hoa.
Ngoài các yêu cầu về chất lượng, dự thảo còn đưa ra các yêu cầu về đặc điểm cơ bản và hình thức như hình dạng quả, màu sắc, vị thịt quả, khối lượng quả, hàm lượng tổng chất rắn hòa tan, hàm lượng chất khô của từng giống. Đơn cử, sầu riêng phải có hàm lượng chất khô không thấp hơn 32,29% đối với giống Ri6 và 32,22% đối với giống DONA, ngang ngửa tiêu chuẩn xuất khẩu của Thái Lan.
Sầu riêng được phân làm ba hạng chất lượng I, II, III. Trong đó, hạng I là tốt nhất, hạng III bao gồm các trái sầu riêng không đạt yêu cầu của các hạng cao hơn nhưng vẫn đáp ứng các yêu cầu tối thiểu được quy định.
Về an toàn thực phẩm, sầu riêng phải đáp ứng được giới hạn dư lượng tối đa đối với thuốc bảo vệ thực vật theo quy định hiện hành trong nước và các thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường Trung Quốc. Đồng thời đáp ứng được giới hạn tối đa kim loại nặng (chì, cadimi, thủy ngân, arsen,...) theo quy định hiện hành ở trong nước và nước xuất khẩu; đáp ứng được giới hạn tối đa độc tố vi nấm, đáp ứng giới hạn tối đa ô nhiễm vi sinh vật theo quy định hiện hành…
Vì sao cần tiêu chuẩn mới cho sầu riêng?
Bộ Nông nghiệp và Môi trường lý giải, năm 2015, Việt Nam từng ban hành TCVN 10739:2015 về sầu riêng quả tươi, dựa trên tiêu chuẩn của ASEAN Standard 1:2006 và hiệu chỉnh lần 1- 2012. Tuy nhiên, đến nay, nhiều quy định đã lỗi thời, không còn phản ánh đúng tình hình sản xuất và thị trường, đặc biệt là thiếu các thông số quan trọng như độ chín, chất lượng thịt quả, hàm lượng tổng chất rắn hòa tan, chỉ tiêu hàm lượng chất khô… nhất là với hai giống chủ lực Ri6 và Dona.
Trong khi đó, các đối thủ như Thái Lan đã xây dựng bộ tiêu chuẩn sầu riêng từ lâu (TAS 3-2013, TAS.9070-2023), quy định rất rõ hàm lượng chất khô, trọng lượng quả, độ chín, màu sắc, hương vị... phục vụ cho thu mua và xuất khẩu.
Một số quốc gia như Trung Quốc và Indonesia cũng đang siết chặt chất lượng sầu riêng nhập khẩu, tạo sức ép không nhỏ lên Việt Nam. Việc đảm bảo chất lượng sầu riêng xuất khẩu là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay để sầu riêng Việt Nam đứng vững được trên thị trường thế giới, nhất là thị trường Trung Quốc, trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt từ Thái Lan, Malaysia…
Trước tình hình đó, giải pháp mà ngành nông nghiệp đề ra bao gồm nghiên cứu bộ giống sầu riêng thích hợp với yêu cầu của các thị trường, xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng cho sầu riêng và tiếp tục đàm phán mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm sầu riêng, tập trung đầu tư để nâng cao chất lượng, mẫu mã cũng như xây dựng thương hiệu sầu riêng Việt Nam, chú ý từ khâu trồng, thu hoạch, bảo quản, chế biến.
Doanh nghiệp, nông dân ủng hộ
Trao đổi với PLO, nhiều ý kiến bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho quả sầu riêng tươi của Việt Nam lần này.
Một doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc nhận định: "Việc ban hành tiêu chuẩn quốc gia sẽ tạo ra nền tảng vững chắc và định hướng rõ ràng, giúp cả cơ quan quản lý lẫn người sản xuất dễ dàng đánh giá, kiểm soát và tin tưởng vào chất lượng sản phẩm".

Nông dân Đắk Lắk trước thềm thu hoạch sầu riêng chính vụ. Ảnh: VLX
Ông Nguyễn Văn Mười, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cũng cho biết Thái Lan, một "đối thủ" lớn của sầu riêng Việt Nam, đã xây dựng tiêu chuẩn cho quả sầu riêng tươi, xây dựng cả tiêu chuẩn đánh giá thu mua, thậm chí có cả luật để quản lý sầu riêng từ lâu.
Ở Việt Nam, thực tế thời gian qua, vấn đề chất lượng sầu riêng gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là thiếu tiêu chuẩn thống nhất khiến việc quản lý rất khó khăn, từ sản xuất đến mua bán. Thương lái và nông dân nhiều khi xung đột vì không rõ ràng giữa hàng loại A, B, C – dẫn đến thiệt hại kinh tế và mâu thuẫn trong giao dịch.
“Từ một ví dụ rất nhỏ trong thực tiễn để thấy rằng chúng ta phải sớm có tiêu chuẩn mới đối với quả sầu riêng tươi. Trong tiêu chuẩn này đặt ra các điều kiện để cho các bên tuân thủ, tránh đánh tráo, nhập nhèm về chất lượng, gây xung đột giữa các bên và ảnh hưởng uy tín chất lượng quả sầu riêng Việt Nam” - ông Mười nói.
Góp ý cho dự thảo, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết hiện nay, giống Dona và Ri6 chiếm tới 90-95% diện tích nên việc xây dựng tiêu chuẩn nên tập trung vào hai giống này là hợp lý. Các giống khác có diện tích quá nhỏ, không nhất thiết phải ban hành tiêu chuẩn riêng.
Ông cũng cho rằng sầu riêng là cây trồng đặc thù, ví dụ như độ tuổi khai thác, thời gian thu hoạch sau khi nở hoa cũng rất khác nhau, tùy vùng. Ví dụ ở khu vực Đắk Song của tỉnh Đắk Nông cũ (nay là tỉnh Lâm Đồng), giống Monthong cần tới 165-170 ngày, trong khi ở miền Tây chỉ khoảng 120 ngày. Vì vậy, tiêu chuẩn cũng cần phân vùng theo điều kiện khí hậu địa phương, không thể áp dụng chung một con số cho cả nước.
Ông Vũ Đức Côn, nguyên Phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk, cho biết trong dự thảo tiêu chuẩn chất lượng sầu riêng, quy định về độ khô rất quan trọng. Hiện trong dự thảo đưa ra, hàm lượng chất khô không thấp hơn 32,29% đối với giống Ri6 và 32,22% đối với giống DONA.
Ông Côn cho rằng việc đạt được hàm lượng này là một thách thức, vì thực tế tại Đắk Lắk, mùa thu hoạch thường trùng với mùa mưa, khiến việc đạt được hàm lượng chất khô theo tiêu chuẩn trở nên khó khăn hơn.
Mặc dù vậy, ông nhấn mạnh rằng dù khó khăn, vẫn "phải đạt" và xem đây là cơ hội để ngành sầu riêng nâng cao chất lượng sản xuất. Ông Côn tin rằng ban đầu có thể khó, nhưng rồi sẽ tìm ra cách để thực hiện.
Nguồn PLO: https://plo.vn/mo-duong-lon-cho-vua-trai-cay-sau-rieng-vuon-xa-post862914.html