Mở rộng 'hành lang' xử lý nợ xấu
Tại phiên thảo luận ngày 29/5 của Quốc hội về Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, đa số ý kiến đồng thuận luật hóa Nghị quyết 42, nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định và lâu dài để tăng hiệu quả xử lý nợ xấu cũng như cải thiện môi trường tín dụng....

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, theo các đại biểu, Dự thảo Luật cần tiếp tục được rà soát và bổ sung nhằm đảm bảo: (i) tôn trọng quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm; (ii) quy định rõ cơ chế cưỡng chế hành chính và trách nhiệm phối hợp của chính quyền địa phương; (iii) tạo cơ chế thông thoáng trong việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm, nhất là với bất động sản; (iv) thống nhất hệ thống pháp luật hiện hành; (v) hạn chế tối đa rủi ro pháp lý cho các bên liên quan.
BỔ SUNG QUY ĐỊNH VỀ CƯỠNG CHẾ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cho rằng dự thảo Luật đã kế thừa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 42 khi luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm tại Điều 198a. Tuy nhiên, hiện nay, Khoản 5 Điều 198a của dự thảo mới chỉ quy định nghĩa vụ hỗ trợ an ninh, trật tự của chính quyền địa phương mà chưa có căn cứ pháp lý rõ ràng để tổ chức cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm cố tình chây ỳ không hợp tác khi xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. “Tôi đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định rõ cơ chế cưỡng chế hành chính trong trường hợp bên bảo đảm cố tình chống đối, không hợp tác”, đại biểu Huỳnh Thị Phúc nêu ý kiến.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông còn đặc biệt lưu ý đến quy định tại Điều 198c liên quan đến việc hoàn trả tang vật, vật chứng là tài sản bảo đảm trong vụ án hình sự. Ông nhận định quy định này là cần thiết, tuy nhiên cần thống nhất với Luật Xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật Tố tụng hình sự: “Cần bổ sung quy định về thời hạn hoàn trả để tránh trì hoãn gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng”.
Tương tự, đại biểu Trần Anh Tuấn, đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh, cho rằng: “Cần quy định rõ hơn về việc phối hợp ngay từ đầu với chính quyền địa phương trong trường hợp tổ chức tín dụng thông tin bên giữ tài sản không hợp tác”. Đại biểu đề xuất cho phép tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với UBND và công an cấp xã, phường ngay khi tiến hành thu giữ để đảm bảo an ninh trật tự.
Không ít đại biểu cũng thể hiện sự thận trọng với quy định về thu giữ tài sản bảo đảm tại Điều 198a. Đại biểu Nguyễn Hữu Thông, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận, e ngại: “Cho phép tổ chức tín dụng thu giữ mà không cần quyết định của tòa án có thể ảnh hưởng đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân theo Hiến pháp và Bộ luật Dân sự”. Đại biểu Nguyễn Hữu Thông cho rằng Dự thảo Luật cần làm rõ cơ chế bảo vệ quyền lợi bên bảo đảm khi phát sinh tranh chấp hoặc khiếu nại. Việc UBND cấp xã tham gia và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm tại Dự thảo Luật là chưa phù hợp.
“UBND cấp xã không có thẩm quyền cưỡng chế dân sự. Đề nghị chỉ cho phép thu giữ nếu có thỏa thuận rõ ràng, tài sản không bị tranh chấp và cần có quy định cụ thể về giám sát và khiếu nại”, đại biểu Nguyễn Hữu Thông nêu ý kiến.

Bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
"Luật hóa Nghị quyết 42 là rất cần thiết. Khi xử lý được tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng có thể thu hồi vốn, tái cấp vốn cho khách hàng, đồng thời giảm áp lực nợ xấu và lãi suất. Để bảo vệ quyền lợi của người vay, Dự thảo Luật đã quy định rõ ràng về điều kiện, quy trình, thủ tục thu giữ minh bạch, yêu cầu tổ chức tín dụng ban hành quy trình nội bộ để đảm bảo tính hợp pháp và minh bạch trong xử lý tài sản bảo đảm".
Vấn đề ưu tiên khi phát mãi tài sản bảo đảm cũng nhận được sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội. Đại biểu Trần Anh Tuấn khẳng định cần quy định mức độ ưu tiên cao nhất cho tổ chức tín dụng – là bên trực tiếp nhận tài sản bảo đảm theo hợp đồng. Đại biểu Trần Anh Tuấn kiến nghị điều này cần được cụ thể hóa trong Khoản 2 Điều 198a để tránh vướng mắc khi thực hiện.
Cùng quan điểm, đại biểu Trần Văn Tiến, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc, đề xuất thiết kế cơ chế phân biệt rõ hai tình huống để hài hòa lợi ích các bên. Nếu tài sản đã có thỏa thuận với người giữ tài sản trước khi tổ chức tín dụng nhận thế chấp thì tổ chức tín dụng phải có thỏa thuận ba bên trước khi thu giữ. Nếu thỏa thuận phát sinh sau khi đã ký hợp đồng tín dụng thì tổ chức tín dụng có quyền thu giữ theo luật định.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông cũng đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên của hợp đồng bảo đảm, cũng như cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án và tổ chức tín dụng nhằm tránh xung đột pháp lý và đảm bảo hiệu quả xử lý.
VƯỚNG MẮC CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN BẢO ĐẢM
Một trong những vấn đề nổi bật được nhiều đại biểu Quốc hội nêu trong phiên thảo luận về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng chính là vướng mắc trong việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm, đặc biệt là các dự án bất động sản. Dù thực tiễn hoạt động tín dụng trong những năm gần đây cho thấy việc xử lý tài sản bảo đảm là một trong những giải pháp then chốt để thu hồi nợ và giảm nợ xấu; tuy nhiên, nhiều tổ chức tín dụng vẫn gặp vô số khó khăn khi tiến hành chuyển nhượng các tài sản này. Nguyên nhân đến từ khoảng trống pháp lý, sự thiếu đồng bộ giữa các luật chuyên ngành và cơ chế phối hợp liên ngành còn chồng chéo, gây ách tắc trong xử lý.
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc chỉ ra điểm nghẽn trong quy định hiện hành, khi Điều 200 của Luật Các tổ chức tín dụng chưa có điều chỉnh nào trong dự thảo mới để tháo gỡ khó khăn cho việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản.
Đại biểu phân tích: “Việc chuyển nhượng dự án bất động sản là tài sản bảo đảm đang gặp vướng mắc lớn do thiếu văn bản hướng dẫn và sự phối hợp liên ngành còn chồng chéo”. Thực tế này khiến quá trình xử lý nợ mất rất nhiều thời gian, trong khi tài sản bảo đảm ngày càng xuống cấp, mất giá, dẫn đến thiệt hại không chỉ cho ngân hàng mà còn cho cả nền kinh tế.
Để tháo gỡ, đại biểu Huỳnh Thị Phúc đề xuất cần bổ sung một quy định mới trong luật theo hướng tăng tính chủ động và hiệu lực pháp lý của việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm. Cụ thể, đại biểu Huỳnh Thị Phúc kiến nghị: “Việc chuyển nhượng có hiệu lực pháp lý ngay khi tổ chức tín dụng hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng theo hợp đồng, mà không phụ thuộc vào hướng dẫn từ các văn bản pháp luật chuyên ngành khác”.

Theo các đại biểu, đây là đề xuất mang tính đột phá, nhằm đảm bảo tính liên tục và hiệu quả trong xử lý tài sản, giảm thiểu tình trạng trì trệ vốn đang diễn ra phổ biến hiện nay.
Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, dù tổ chức tín dụng đã đạt được thỏa thuận chuyển nhượng nhưng lại vướng mắc trong việc xin giấy phép, phê duyệt từ cơ quan quản lý xây dựng, đất đai, môi trường, hoặc từ chính quyền địa phương, khiến quá trình kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Điều này không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho ngân hàng mà còn làm mất niềm tin của nhà đầu tư, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường bất động sản.
Nhiều đại biểu khác cũng bày tỏ đồng tình với việc cần sửa đổi pháp luật để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thống nhất cho hoạt động chuyển nhượng tài sản bảo đảm. Một số ý kiến đề xuất nên có cơ chế “một cửa liên thông” hoặc giao một đầu mối chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp xử lý hồ sơ chuyển nhượng tài sản bảo đảm giữa các bên: cơ quan thuế, cơ quan tài nguyên môi trường, chính quyền địa phương và các tổ chức tín dụng. Nhờ đó, tiến độ xử lý mới được rút ngắn, đồng thời bảo vệ được lợi ích hợp pháp của bên mua, bên bán và người vay vốn.
Từ thực tiễn nêu trên có thể thấy việc hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến chuyển nhượng tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản, là yêu cầu bức thiết để xử lý dứt điểm nợ xấu, thúc đẩy dòng chảy vốn tín dụng trong nền kinh tế. Các đại biểu lưu ý việc bổ sung quy định tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng phải đi đôi với sự thống nhất pháp lý giữa các luật chuyên ngành như Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đầu tư,… đồng thời, cần một cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các cơ quan hành chính Nhà nước, tránh tình trạng mỗi ngành một quy định, gây khó khăn cho doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.
Theo các chuyên gia, nếu những vướng mắc pháp lý nói trên không được tháo gỡ một cách triệt để và kịp thời khi sửa đổi luật lần này thì mục tiêu giảm nhanh nợ xấu và tạo lập môi trường tín dụng lành mạnh sẽ khó đạt được trong thực tế...
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 22-2025 phát hành ngày 02/06/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/mo-rong-hanh-lang-xu-ly-no-xau.htm