Mỗi vụ mùa thắng lợi, là Tổ quốc lớn lên

Từ buổi bình minh độc lập cho tới nay, nông nghiệp, nông dân đã luôn gánh sứ mệnh sản xuất lương thực, thực phẩm cho nguồn sống của con người, là nguồn lực trọng yếu, trụ đỡ cho quốc gia. Nông nghiệp khó có thể giúp quốc gia giàu có, nhưng thiếu trụ đỡ từ nông nghiệp thì quốc gia khó sinh tồn.

Kháng chiến và tự lực cánh sinh

Năm 1945, đất nước đối mặt với nạn đói kinh hoàng khiến hơn hai triệu người chết. Ngay sau ngày độc lập 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi: Giệt giặc đói khổ-giệt giặc dốt nát-diệt giặc ngoại xâm. Trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”. Lời dạy ấy đã lay động lòng người, mở đường cho tư duy phát triển nông nghiệp gắn với an sinh, an ninh quốc gia.

Dưới ánh sáng của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, nông nghiệp đóng vai trò rường cột. Lực lượng nông dân không chỉ nuôi sống quân dân kháng chiến mà còn trở thành chiến sĩ trực tiếp góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Thành tựu nổi bật của thời kỳ này không nằm ở sản lượng mà ở đắp xây nền tảng từ công cuộc cải cách ruộng đất (1953-1956), trao đất cho người cày có ruộng, tạo động lực chính trị-xã hội vững chắc cho nông thôn Việt Nam phát triển và bước vào thời kỳ kiến quốc.

 Nông dân tỉnh Đắk Lắk thu hoạch lúa. Ảnh: NGUYỄN KIỂM

Nông dân tỉnh Đắk Lắk thu hoạch lúa. Ảnh: NGUYỄN KIỂM

Nông nghiệp thời kỳ này không chỉ phục vụ dân sinh mà còn đóng vai trò chiến lược trong kháng chiến toàn dân. Việc xây dựng căn cứ địa kháng chiến trong lòng nông thôn đã phát huy sức mạnh toàn dân. Hình ảnh những đoàn dân công hỏa tuyến gùi gạo ra mặt trận, những "cánh đồng 5 tấn” trong khói lửa bom đạn, là minh chứng sống động cho vai trò không thể thay thế của nông dân trong kháng chiến.

Đặc biệt, cải cách ruộng đất giai đoạn 1953-1956 đã chia lại ruộng cho nông dân, từng bước xác lập quyền làm chủ trên đồng ruộng, khởi nguồn cho tinh thần làm ăn tập thể-bước chuẩn bị chủ động cho kháng chiến lâu dài ở miền Nam.

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong bối cảnh chia cắt, nông nghiệp miền Bắc gánh vác vai trò “hậu phương lớn” vừa sản xuất vừa chi viện cho chiến trường miền Nam.

Lần đầu tiên trong lịch sử, người nông dân có tổ chức kinh tế của riêng mình. Với hàng triệu nông dân đã liên kết, hợp tác sản xuất bằng hình thức tham gia “tổ vần công, tổ đổi công” và tiến lên xây dựng hợp tác xã (HTX) cấp thấp ở thôn, làng, HTX nông nghiệp cấp cao với quy mô toàn xã. Từ năm 1964 đến 1975, hơn 95% hộ nông dân miền Bắc là xã viên HTX nông nghiệp. Dù mô hình tập thể còn thiếu hiệu quả kinh tế nhưng đã phát huy tinh thần đoàn kết, tạo điều kiện cho sản xuất cơ giới hóa bước đầu. Tư tưởng “người cày có ruộng” kết hợp với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” đã tiếp sức cho những chiến công vang dội.

Miền Nam, trong khi đó, hình thành các vùng căn cứ “vành đai xanh” như Tây Ninh, Đồng Tháp Mười, U Minh là nơi sản xuất và hậu cần quan trọng. Nông dân vùng căn cứ biết tận dụng địa hình sông nước, phát triển mô hình VAC (vườn-ao-chuồng) tự cấp lương thực, góp phần nuôi quân lâu dài. Nhiều kỹ thuật canh tác, giống cây bản địa, giống lúa lai Ba Thắc (Sóc Trăng) với giống lúa Nhật cho ra giống lúa ngắn ngày, kháng sâu bệnh, năng suất cao đã ra đời trong chiến tranh và được áp dụng rộng rãi. Lúa ấy được đem ra miền Bắc tiếp tục cải hoán, lai tạo, làm nên cuộc “Cách mạng xanh” lần thứ nhất của đất nước: Từ hai vụ lúa thuần dài ngày thành hai vụ ngắn ngày để có đất, có thời gian làm vụ đông trồng khoai tây, cây ngô, đậu, rau ưa lạnh... vừa tăng thu nhập cho nông dân, vừa làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm... tạo nguồn cung lớn cho tiền tuyến.

Xóa nghèo - đổi mới - xuất khẩu

Ngay sau giải phóng, cả nước bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế trong điều kiện chiến tranh tàn phá nặng nề. Sản xuất nông nghiệp gặp khó vì thiên tai, thiếu phân bón, cơ giới hóa yếu, quản lý hành chính quan liêu. Mỗi năm, nước ta phải nhập hơn 1 triệu tấn lương thực. Cảnh “tem phiếu”, “bữa no bữa đói” kéo dài đến những năm 80 của thế kỷ trước.

Trong gian khó, những sáng kiến mới nảy sinh. Từ khoán 100 năm 1981 đến khoán 10 năm 1988 (sau này được thể chế hóa), người nông dân bắt đầu được giao ruộng ổn định, lâu dài, được hưởng sản phẩm dôi dư sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ. Chính sách này đã giải phóng sức sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng chưa từng có trong nông thôn-hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế cơ bản trong sản xuất nông nghiệp.

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó, nông nghiệp là lĩnh vực đầu tiên được “cởi trói”. Đáng chú ý là, chính sách giao đất lâu dài (Luật Đất đai 1993) cùng đầu tư cho thủy lợi, giống cây trồng, hệ thống khuyến nông đã tạo nền móng cho nông nghiệp hàng hóa phát triển mạnh mẽ.

Từ năm 1989, Việt Nam đã xuất khẩu lô gạo đầu tiên. Năm 1992, xuất khẩu hơn 1,96 triệu tấn gạo. Từ năm 1998 đến 2024, Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu gạo. Thế giới mỗi khi nói đến hạt gạo là nghĩ về Việt Nam. Cùng với đó, các cây trồng như cà phê (Tây Nguyên), hồ tiêu (Quảng Trị-Bình Phước), điều (Đắk Nông), chè (Thái Nguyên), cao su (Đông Nam Bộ)... được phát triển theo vùng chuyên canh. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản đạt 62,5 tỷ USD, mức xuất siêu 17,9 tỷ USD, đánh dấu bước tiến ngoạn mục của ngành nông nghiệp Việt Nam vươn ra thế giới.

Sản xuất lúa gạo phát triển, sản lượng tăng vọt giúp Việt Nam bảo đảm an ninh lương thực trong nước đồng thời xuất khẩu. Trong các năm 2023, 2025, khi đất nước Cuba gặp khó khăn, Việt Nam đã gửi tặng hàng nghìn tấn gạo. Mỗi chuyến gạo Việt Nam đi xa không chỉ là một sự sẻ chia mà ở đó còn là sự thủy chung của tình hữu nghị anh em, tình yêu thương, đùm bọc và trở thành “nhịp cầu kết nối” tương lai.

Giữ gìn căn cốt bản sắc Việt

Thế kỷ 21 đánh dấu giai đoạn hội nhập mạnh mẽ. Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, Việt Nam ký kết hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương (CPTPP, EVFTA, RCEP...). Nông nghiệp bước vào cuộc chơi toàn cầu, với yêu cầu cao hơn về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn xanh. Giá trị xuất khẩu nông sản không ngừng tăng: 15 tỷ USD (năm 2007), 30 tỷ USD (năm 2014) và 62,5 tỷ USD (năm 2024). Việt Nam dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu, điều; đứng thứ hai là cà phê; thứ ba là gạo và cao su. Nhiều doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ, nông nghiệp 4.0 ra đời.

Cùng với đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới từ năm 2010 đã giúp bức tranh nông thôn Việt Nam đổi thay từ đường làng, điện sáng, trường học khang trang, hạ tầng đồng bộ. Đặc biệt chất lượng cuộc sống của người dân vùng nông thôn ngày một cải thiện, nâng cao.

Dấn sâu vào hội nhập và khởi sự quỹ đạo phát triển mới vì sự tồn sinh, giàu có của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân-nông nghiệp không chỉ là "trụ đỡ" kinh tế mà còn là ngành tiên phong trong chuyển đổi xanh, giảm phát thải và kinh tế tuần hoàn. Nhiều mô hình HTX kiểu mới, doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi số trong nông nghiệp đang tạo ra thế hệ nông dân mới, chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo để làm nên tất thắng trong tương lai, bởi:

Mỗi hạt lúa là một tấm lòng dân,

Là một phần Tổ quốc

Mỗi vụ mùa thắng lợi

Là Tổ quốc lớn lên...

(Nhà thơ Trần Đăng Khoa)

HOÀNG TRỌNG THỦY, Nguyên Tổng biên tập Tạp chí Nông thôn mới của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/moi-vu-mua-thang-loi-la-to-quoc-lon-len-843572