Một tàu lá dừa treo lên, một thương hồ sắp rời bến

Giữa mênh mang sông nước miền Tây, có những lời chia tay không cần nói thành lời. Chỉ một tàu lá dừa khô treo lên cây bẹo nơi mũi ghe cũng đủ để người trong cuộc hiểu rằng: Một thương hồ sắp rời bến. Khi dòng sông không còn là chốn mưu sinh, cây bẹo bỗng trở thành ký ức lặng lẽ của một nếp sống đang dần khuất bóng.

Miền Tây có những điều rất lạ. Không ồn ào, không bảng hiệu đèn màu, không lời chào mời rôm rả, vậy mà ai từng đi chợ nổi một lần đều khó quên.

Ghe thuyền buôn bán tấp nập ở chợ nổi Cái Bè những năm trước đây. Ảnh: VÕ NGUYÊN PHÚ

Nhớ con nước lững lờ trôi theo nhịp lớn ròng, nhớ tiếng máy ghe nổ đều đều giữa mênh mang sông nước, nhớ những gương mặt sạm nắng nhưng lúc nào cũng sẵn một nụ cười hiền khô.

Và nhớ cả cây bẹo - cây sào nhỏ cắm nơi mũi ghe, treo lủng lẳng vài thứ tưởng chừng rất đỗi bình thường, nhưng lại chứa đựng cả một cách sống, một nếp nghĩ của người miền sông nước.

Với người thương hồ, cây bẹo không đơn thuần là vật dụng buôn bán. Nó là cách người ta “nói chuyện” với nhau giữa dòng sông rộng, nơi tiếng gọi dễ tan theo gió, nơi mỗi chiếc ghe đều trôi theo con nước của riêng mình.

Treo trái bí là bán bí, treo nải chuối là bán chuối, treo mớ khoai, chùm bắp… nhìn qua là hiểu. Không cần rao, không cần hỏi. Cái gì cần nói, cây bẹo nói thay. Mộc mạc vậy mà thông suốt, giản dị mà đầy tinh tế.

Có những chiếc ghe không treo gì cả. Đó thường là ghe bán hủ tiếu, cà phê, cháo lòng, bún riêu… những món ăn không cần giới thiệu mà ai cũng biết, cũng quen thuộc.

Chỉ cần mùi nước lèo bốc lên trong buổi sớm, chỉ cần tiếng muỗng chạm thành nồi leng keng là khách tự tìm tới. Trên sông, nhiều khi cái bụng đói còn nhạy hơn cả đôi mắt.

Một góc chợ nổi Cái Bè khi còn buôn bán nhộn nhịp. Ảnh: VÕ NGUYÊN PHÚ

Người mua chẳng cần hỏi, người bán cũng chẳng cần mời. Tất cả diễn ra chậm rãi, vừa đủ, như cách con nước đi qua đời thương hồ bao năm nay.

Rồi cũng có những thứ được treo lên mà không phải để bán. Bộ quần áo phơi nắng, chiếc khăn rằn bạc màu, đôi tất nhỏ xíu của trẻ con… lặng lẽ đung đưa theo gió.

Nhìn vô là biết trên chiếc ghe đó có một gia đình đang sống, đang ăn ở, đang bươn chải giữa sông nước. Cây bẹo khi ấy không còn là “bảng hiệu” buôn bán, mà trở thành dấu hiệu của một mái nhà.

Không tường vách, không nền gạch, nhưng đủ để che mưa nắng và giữ lại hơi ấm của một gia đình.

Đời thương hồ là vậy. Sinh ra trên ghe, lớn lên theo con nước. Trẻ con biết bơi trước khi biết đọc, biết né sóng trước khi biết chữ. Nhà là chiếc ghe nhỏ, chật chội nhưng quen thuộc. Mỗi lần con nước đổi dòng là mỗi lần gia đình đổi hướng.

Cuộc sống không có khái niệm “địa chỉ cố định”, chỉ có những bến quen, những khúc sông nhớ mặt. Ở đó, người ta học cách sống nương theo tự nhiên, chấp nhận bấp bênh như một phần tất yếu của đời mình.

Nhưng buồn nhất là khi trên cây bẹo treo lên một tàu lá dừa khô. Tàu lá dừa ấy không bán. Nó cũng không dùng để che nắng, che mưa.

Nó là dấu hiệu lặng lẽ báo rằng: Chủ muốn bán ghe, bán luôn căn nhà nổi, bán luôn kế sinh nhai, bán luôn một đời lênh đênh để tìm đường lên bờ.

Không cần giấy tờ, không cần rao lớn. Chỉ ai từng sống đời thương hồ mới đọc được ý nghĩa của tàu lá dừa khô ấy. Một lời chia tay không kèn, không trống, không nước mắt ồn ào, chỉ có con nước vẫn trôi như chưa từng hay biết.

Tại sao phải rời sông, trong khi con sông đã nuôi sống bao thế hệ? Câu trả lời nghe chừng nghịch lý: Sống giữa nước mà lại thiếu nước sạch. Nước sông giờ không còn trong như xưa. Phù sa vẫn đó, nhưng rác thải, ô nhiễm cũng nhiều hơn.

Người thương hồ vẫn phải múc nước sông lên dùng, lóng phèn qua loa rồi tắm giặt, nấu ăn. Bệnh da liễu, bệnh đường ruột, những cơn sốt vặt cứ theo họ suốt năm tháng. Cái khó không chỉ nằm ở bữa cơm hôm nay, mà là nỗi lo cho sức khỏe, cho tương lai dài lâu.

Khó hơn nữa là chuyện học hành của con cái. Trẻ sinh ra trên ghe, lớn lên theo nhịp sóng, nhưng con chữ thì không trôi theo con nước. Không đất, không hộ khẩu cố định, chuyện đến trường lúc được, lúc không. Có nơi mở lớp học tình thương, có khi vài tháng lại gián đoạn.

Con đường học hành cứ chập chờn như con nước lớn ròng. Cha mẹ đã quen với đời lênh đênh, nhưng ai cũng mong con mình được sống khác hơn. Mong một chỗ ở ổn định, một mái nhà không trôi theo dòng, một tương lai không bấp bênh như đời ba mẹ.

Rồi đường sá mở ra, cầu cống mọc lên. Hàng hóa từ ruộng vườn được chở thẳng lên bờ bằng xe tải, xe máy. Người ta đi chợ trên bờ, đi siêu thị, ít ai còn chèo ghe ra sông mua bán như trước. Mỗi cây cầu nối liền đôi bờ cũng là thêm một nhịp chợ nổi lặng đi.

Dòng sông vẫn đó, nhưng vai trò của nó trong đời sống buôn bán không còn như xưa. Chợ trên sông dần trở thành chuyện để kể, để nhớ, để giới thiệu với du khách phương xa.

Những chiếc ghe còn neo lại bây giờ phần nhiều giữ vai trò “kể chuyện xưa” hơn là mưu sinh thật sự. Chở khách tham quan, bán vài món hàng lưu niệm, trái cây cho có không khí.

Còn những thương hồ đúng nghĩa thì lặng lẽ rút lui, không ồn ào, không níu kéo. Chỉ cần treo lên cây bẹo một tàu lá dừa khô là đủ.

Mỗi tàu lá dừa treo lên, đong đưa trong gió là thêm một gia đình tạm biệt dòng sông.

Và có lẽ, đến một ngày nào đó, khi không còn thấy cây bẹo trên mũi ghe, người ta sẽ chợt hiểu: Một nếp sống đã khép lại. Không mất đi, nhưng đã trôi về phía ký ức, lặng lẽ như chính đời thương hồ bao năm qua.

QUANG MINH

Nguồn Đồng Tháp: https://baodongthap.vn/mot-tau-la-dua-treo-len-mot-thuong-ho-sap-roi-ben-a234333.html