Mưa lũ dồn dập, bất thường bộc lộ điểm yếu của hệ thống hồ đập
Cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi nhưng phần đa là hồ quy mô vừa và nhỏ và chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc.
Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm mù” lớn
Tại Diễn đàn: “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”, do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức cuối tuần qua, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhìn nhận, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.
Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế.
Tuy nhiên, phần lớn các hồ đều có quy mô vừa và nhỏ, do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.
Nhiều quy trình vận hành hồ đơn và liên hồ hiện nay được xây dựng trên chuỗi số liệu lịch sử cũ, chưa phản ánh các giá trị cực trị mới trong 2-3 năm gần đây khi mưa có thể đã gấp 4-6 lần trung bình tháng và lũ vượt xa các kỷ lục ghi nhận trước đó.

Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhìn nhận, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề về vận hành hồ, đập
Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ NN&MT được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ.
Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định.
Trong khi đó, mưa lũ những năm gần đây diễn biến trái quy luật, bão xuất hiện dồn dập. Không gian thoát lũ bị thu hẹp bởi đô thị hóa nhanh, hạ tầng tiêu thoát chưa theo kịp.
Lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi thẳng thắn, phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm mù” lớn: hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực.
Khả năng tiêu thoát nước và chống ngập của nhiều vùng hạ du đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ yếu thủ công.
Nhiệm vụ của hồ chứa phải là đa mục tiêu
Từ thực tế trên, ông Nguyễn Tùng Phong nêu định hướng chuyển mạnh sang tiếp cận “quản lý rủi ro và quản trị rủi ro”, quản lý thống nhất theo lưu vực và liên lưu vực sông, thay vì chỉ nhìn từng hồ hay từng ngành.
“Nhiệm vụ của hồ chứa phải được xác định rõ là đa mục tiêu: cắt giảm lũ và đảm bảo an toàn công trình, bảo vệ hạ du, cấp nước cho dân sinh, sản xuất. Từ đó, cần nghiên cứu nâng dung tích phòng lũ ở nhiều hồ bằng cách xem xét sử dụng linh hoạt khoảng chênh giữa mực nước dâng bình thường và mực nước lũ thiết kế, thay vì chỉ giữ an toàn theo cách cũ”, ông Phong nêu quan điểm.
Ông Phan Tiến An, Trưởng phòng An toàn đập và Hồ chứa nước - Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cũng cho rằng, cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa.

Thủy điện Ba Hạ xả lũ kỷ lục trong đợt mưa lớn vừa qua ở Trung bộ
Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.
Còn theo PGS.TS Hoàng Thái Đại, dù thiết bị hay phần mềm tiên tiến đến đâu thì vai trò của quản lý Nhà nước vẫn là yếu tố quyết định. Nhà nước phải đứng ra điều phối, thống nhất quản lý tài nguyên nước và hệ thống hồ đập từ Trung ương đến địa phương…
GS.TS Hoàng Thế Đại nhắc lại bài học về những xung đột vận hành giữa thủy điện và thủy lợi giai đoạn trước, khi hai ngành hoạt động tách rời, mỗi bên có một mục tiêu. Theo ông, trong bối cảnh mới, khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường thống nhất quản lý tài nguyên nước và công trình thủy lợi, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng để xử lý các vấn đề liên ngành.
Ông cho rằng chỉ khi có cơ quan điều phối thống nhất, kết hợp với dữ liệu đầy đủ và hạ tầng quan trắc đồng bộ thì các chính sách vận hành liên hồ mới đi vào thực chất.











