Mưu sinh ở vùng đất bãi bồi ven biển
Vùng đất bãi bồi ven biển Kim Sơn là thành quả từ lịch sử quai đê lấn biển của lớp lớp các thế hệ cha ông từ xa xưa. Để tiếp nối truyền thống đó, người dân nơi đây đã trồng lên những cánh rừng ngập mặn với cây sú, cây vẹt để giữ đất. Những cánh rừng ngập mặn không chỉ bảo vệ đất liền khỏi những cơn bão dữ mà còn đang tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho nhiều bà con ngư dân trong vùng.
Anh Trần Văn Bình phân loại thủy hải sản đã đánh bắt được.
Trời chậptối, chị Nguyễn Thị Đào (xã Kim Trung) tất bật chuẩn bị dụng cụ để bắt đầu calàm việc buổi tối của mình. Với chiếc xô nhựa, ủng, găng tay và một chiếc đènpin, chị Đào rời nhà để ra vùng bãi bồi bắt cáy.
Tùy theo chiều con nước, việcbắt cáy của chị có thể bắt đầu từ chập tối cho đến đêm hoặc có thể từ giữa đêmcho đến sáng sớm ngày hôm sau, vừa kịp lúc họp chợ. Công việc này đã gắn bó vơíchị Đào từ hơn chục năm nay nên đường đi lối lại ở khu vực này trở nên quá đôĩquen thuộc với người phụ nữ ngoài 30 tuổi.
Chị Đào cho biết, cáy làm tổ dươílòng đất, lúc đi kiếm ăn mới bò lên. Việc bắt cáy thường vào ban đêm vì lúc nàynó thường chậm chạp hơn, trời sáng chúng chạy rất nhanh, khó mà bắt được. Vơínhững người thợ lành nghề như chị Đào, việc bắt cáy có phần dễ dàng hơn bởi cóthể phát hiện ra tổ của chúng ở đâu, di chuyển như thế nào và vùng nào chúngtập trung sinh sống.
Thời điểm này, một đêm chị Đào có thể bắt được chục câncáy, mùa rét thì chỉ được một nửa. Sáng sớm hôm sau khi đem ra chợ bán với giákhoảng 40 nghìn đồng/kg, chị đã có một khoản tiền kha khá để chi tiêu sinh hoạtcủa gia đình trong ngày hôm đó.
Chị Đào chia sẻ, mùa nắng thì còn đỡ chứ mùarét đi bắt cáy rất vất vả, hơn nữa lại bắt được ít hơn. Vất vả là thế nhưngkhoản thu nhập từ việc này đủ để chúng tôi trang trải cuộc sống gia đình.
Cũng nhờvào vùng đất ngập mặn để mưu sinh, anh Trần Văn Bình ở xóm 7, xã Cồn Thoi (KimSơn) đã làm nghề đặt đăng, đó từ 4-5 năm về trước. Trên vùng đất lưu không củađê Bình Minh 2, anh Bình quây những mảnh lưới thành cái đăng, cái đó để vây bắtnguồn thủy sản tự nhiên. Những thứ anh bắt được có đủ loại, từ tôm rảo (hay còngọi là tôm đất) cho đến cua rạm, nhệch và đủ các loại cá...
Trong đó, tôm rảovà cua rạm là loại kiếm được tiền nhất. Những hàng buôn thường lấy giá cua rạmlà 150 nghìn đồng/kg, tôm rảo từ 120-180 nghìn đồng/kg. Vì vậy, những ngày bôịthu, anh có thể kiếm đến bạc triệu. Anh Bình cho biết, bắt được nhiều hay ítcòn tùy thuộc vào con nước, ngày được nhiều thì 500 nghìn đến 1 triệu đồng,ngày ít thì chỉ được khoảng 300 nghìn đồng đổ lại.
Mỗi buổi sáng sớm là thơìđiểm thu hoạch thành quả, ngụp lặn dưới vùng đầm lầy để gỡ chiếc đó ra khỏinhững tấm lưới quây và đưa lên bờ, anh Bình lại hì hụi ngồi phân loại tôm, cuađể mang đi bán. Khi công việc này hoàn tất, anh lại cặm cụi chỉnh lại chiếc đóvà đặt trở lại vị trí cũ, với niềm hy vọng buổi sáng sớm ngày mai sẽ lại đầy ắptôm cá như hôm nay. Anh Bình chia sẻ, công việc vất vả nhưng cho thu nhập khá, cuộc sống ổn địnhhơn.
Vùng venbiển huyện Kim Sơn có rừng ngập mặn rộng lớn, cùng với độ mặn phù hợp được xemlà nơi lý tưởng cho các loại sinh vật sinh sôi và phát triển. Các loài như tômrảo, cua rạm, cáy thường trú ngụ trong rừng sú vẹt, đợi thủy triều lên chúngmới bò ra khỏi hang kiếm ăn nên muốn bắt được cũng không phải là điều dễ dàng.
Công việc của những người dân mưu sinh bằng nghề này thường diễn ra quanh năm,nhưng vào mùa săn bắt chính là bắt đầu từ mùa xuân cho đến hết hè. Tuy cho thunhập khá song người dân nơi đây vẫn luôn nhắc nhở nhau rằng, không được săn bắtquá mức theo tư tưởng tận thu, mà cần gìn giữ và bảo vệ rừng ngập mặn cùng cácloài sinh vật ở đó để làm nguồn sinh kế lâu dài và bền vững.
Bài, ảnh:Thái Học