Mỹ-Thổ Nhĩ Kỳ: Tái định hình quan hệ

Liệu cuộc gặp sắp tới giữa Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan và Tổng thống Mỹ Donald Trump tại Nhà Trắng sau bảy năm có gỡ được các nút thắt?

Tổng thống Recep Tayyip Erdogan và Tổng thống Donald Trump gặp nhau tại Nhà Trắng, ngày 13/11/2019. (Nguồn: Bloomberg)

Tổng thống Recep Tayyip Erdogan và Tổng thống Donald Trump gặp nhau tại Nhà Trắng, ngày 13/11/2019. (Nguồn: Bloomberg)

Cuộc gặp ngày 25/9 đánh dấu chuyến thăm Nhà Trắng đầu tiên của ông Erdogan kể từ năm 2019, qua đó khôi phục kênh tiếp xúc trực tiếp cấp cao vốn bị gián đoạn giữa Ankara và Washington.

Gỡ điểm nghẽn

Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh quan hệ Mỹ-Thổ Nhĩ Kỳ rơi vào giai đoạn căng thẳng, bắt nguồn từ việc Ankara mua hệ thống tên lửa phòng không tầm xa S-400 của Nga. Sự chuyển hướng này của Thổ Nhĩ Kỳ dẫn tới các biện pháp trừng phạt theo Đạo luật chống đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA) và Nhà Trắng đã loại Thổ Nhĩ Kỳ khỏi chương trình mua chiến đấu cơ F-35. Ngoài ra, hai bên còn bất đồng sâu sắc về chính sách đối với Syria, đặc biệt liên quan đến lực lượng người Kurd.

Chính vì vậy, việc ông Trump công khai xác nhận tiếp đón ông Erdogan trong thời gian đến Mỹ dự khóa họp Đại hội đồng Liên hợp quốc và nêu rõ các nội dung thảo luận dự kiến, bao gồm nối lại thương vụ F-16, F-35 và các hợp đồng lớn trong lĩnh vực hàng không như Boeing cho thấy quyết tâm trong việc tìm kiếm lối ra cho các vấn đề tồn đọng.

Để tạo không khí thuận lợi cho cuộc gặp, ngay trước chuyến thăm, Ankara đã ban hành quyết định chấm dứt các mức thuế bổ sung áp lên một loạt hàng hóa xuất xứ Mỹ từ năm 2018 như ô tô, gạo, trái cây, thuốc lá... Đây là tín hiệu “giảm nhiệt” căng thẳng song phương được Thổ Nhĩ Kỳ đánh giá là “tiến triển tích cực” trong tham vấn và phù hợp quy trình của WTO.

Ba trọng tâm

Thứ nhất, về quốc phòng, hai bên tập trung thảo luận gói F-16 Block 70 nhằm mua sắm mới và nâng cấp phi đội chiến đấu cơ hiện có của Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời đề cập khả năng khôi phục hợp tác trong chương trình F-35 vốn bị đình chỉ sau thương vụ S-400 năm 2019. Mặc dù việc trở lại gói F-35 còn phụ thuộc nhiều điều kiện chính trị - pháp lý, việc đưa dự án này vào chương trình nghị sự cho thấy mong muốn thu hẹp khác biệt.

Bên cạnh đó, các hợp đồng mua máy bay dân dụng Boeing cũng nằm trong gói hợp tác rộng hơn, phản ánh sự gắn kết giữa lợi ích quốc phòng và kinh tế. Tổng thống Trump khẳng định Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ “đang làm việc trên nhiều thỏa thuận thương mại và quân sự, bao gồm đơn hàng Boeing quy mô lớn, thỏa thuận F-16 và tiếp tục đàm phán F-35”.

Thứ hai, về thương mại, lãnh đạo hai nước từng tái khẳng định mục tiêu đưa kim ngạch song phương lên 100 tỷ USD, coi đây là định hướng trọng tâm để thúc đẩy đầu tư, giảm rào cản phi thuế quan và mở rộng hợp tác công nghiệp. Tuyên bố này được cả hai bên nhấn mạnh lại trong các sự kiện bên lề Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 80, cho thấy cam kết chính trị ở mức cao đối với việc mở rộng quan hệ kinh tế.

Thứ ba, về các hồ sơ khu vực, nội dung thảo luận tập trung vào tình hình Dải Gaza, tiến trình Syria và xung đột tại Ukraine. Washington coi hợp tác với Ankara có ý nghĩa thực tiễn trong việc thiết lập và đảm bảo an toàn cho các tuyến hỗ trợ nhân đạo và an ninh tại những khu vực xảy ra xung đột, còn Thổ Nhĩ Kỳ nhấn mạnh rằng những biến động tại Trung Đông có “tầm quan trọng sống còn” đối với an ninh quốc gia và cần được bàn bạc trực tiếp với Mỹ.

Từ góc độ lợi ích, Ankara ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng – hàng không, Các hợp đồng F-16, F-35 và Boeing vừa mang lại năng lực quốc phòng, vừa thu hút vốn và công nghệ. Với Mỹ, thương vụ F-16 giúp duy trì tính tương thích trong NATO, còn các hợp đồng công nghiệp – hàng không tạo thêm lợi ích kinh tế trong nước. Đồng thời, việc phối hợp với Thổ Nhĩ Kỳ trong các hồ sơ Gaza và Syria góp phần gia tăng dư địa chính sách của Washington tại Trung Đông.

Thách thức còn đó

Quan hệ Mỹ-Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đối diện những thách thức cấu trúc khó giải quyết ngay. Thứ nhất, hồ sơ S-400 cùng các biện pháp trừng phạt theo Đạo luật CAATSA tiếp tục là rào cản pháp lý – chính trị đối với mọi điều chỉnh liên quan đến dự án F-35. Ngay cả với gói F-16 Block 70, tiến độ triển khai vẫn cần sự phê chuẩn của Quốc hội Mỹ và chịu tác động từ dư luận chính trị trong nước, do đó khó có thể coi là chắc chắn.

Thứ hai, khác biệt về chính sách Syria - đặc biệt liên quan tới lực lượng dân quân người Kurd (YPG) mà Mỹ coi là đối tác chống IS còn Thổ Nhĩ Kỳ coi là mối đe dọa an ninh – có thể làm phát sinh va chạm bất cứ khi nào tình hình thực địa biến động. Đây là yếu tố bất định lớn, khiến hợp tác an ninh song phương khó duy trì ổn định lâu dài.

Thứ ba, mục tiêu 100 tỷ USD kim ngạch thương mại cần được thể chế hóa bằng những bước đi cụ thể, như giảm rào cản phi thuế, xây dựng khung bảo hộ đầu tư và quy tắc tiêu chuẩn kỹ thuật. Nếu thiếu tiến triển ở các mốc công việc này, mục tiêu sẽ khó đạt và dễ rơi vào tình trạng chỉ là khẩu hiệu chính trị.

Do dó, thước đo thực chất của chuyến thăm không nằm ở các tuyên bố chung, mà ở các kết quả có thể kiểm chứng: tiến trình hợp đồng F-16 (từ phê chuẩn đến bàn giao), quy mô đơn hàng Boeing kèm theo tỷ lệ nội địa hóa và những biện pháp cụ thể để tháo gỡ rào cản thương mại.

Sự hiện diện của Tổng thống Erdogan tại Nhà Trắng cho thấy hai bên đang ưu tiên cách tiếp cận thực dụng: tháo gỡ từng phần các vướng mắc để đổi lấy hợp tác cụ thể trong thương mại và quốc phòng. Tính bền vững của quỹ đạo này phụ thuộc vào năng lực thể chế hóa cam kết (cơ chế theo dõi tiến độ, cảnh báo sớm tranh chấp) và quản trị khủng hoảng (đặc biệt tại Gaza và Syria). Các phát ngôn công khai của hai nhà lãnh đạo phản ánh kỳ vọng tích cực về triển vọng đó, song chưa phải là cam kết ràng buộc pháp lý, vì vậy, cần đánh giá thông qua kết quả cụ thể sau cuộc gặp ngày 25/9.

Hoàng Thanh Tâm

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/my-tho-nhi-ky-tai-dinh-hinh-quan-he-328857.html