Nã pháo vào tư duy 'không quản được thì cấm'

Yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước về thương hiệu vàng miếng là phát pháo lệnh bắn vào thành trì của tư duy 'không quản được thì cấm' và cơ chế xin – cho.

Trước hết, xin nêu lại chỉ đạo của Tổng Bí thư tại cuộc làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về thị trường vàng vừa qua: “Chuyển mạnh từ tư duy hành chính sang tư duy thị trường có kỷ cương, từ “siết để kiểm soát” sang “mở để quản trị”; nhất định phải quán triệt, xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; đồng thời phải đưa thị trường vàng vận động phù hợp với các nguyên tắc của thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Tránh can thiệp cứng nhắc, bó hẹp sự vận động và phát huy ưu điểm của thị trường, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp; bảo đảm sự minh bạch trên thị trường”.

Đó là những chỉ đạo mang tính bước ngoặt, không chỉ cho thị trường vàng mà còn cho nhiều thị trường khác. Đã có hội nghị toàn quốc về các nghị quyết 66, 68 để thay đổi tư duy quản lý; chỉ đạo như trên của Tổng Bí thư như mệnh lệnh phải thay đổi hành động, sau khi thay đổi tư duy.

Độc quyền vàng

Thành thực mà nói, những năm 2008-2012, nền kinh tế đã gặp biến động kinh tế vĩ mô, lạm phát cao, người dân tìm đến vàng như một kênh trú ẩn tài sản. Tuy vậy, các cơn sốt giá liên tiếp, nguồn ngoại tệ chảy ra nước ngoài đã tiếp thêm cường lực cho vòng xáy bất ổn.

Trong hoàn cảnh ấy, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP, với mục tiêu ổn định thị trường vàng, trao cho Nhà nước độc quyền trong sản xuất vàng miếng, độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và định danh SJC là thương hiệu vàng miếng duy nhất thuộc về Nhà nước.

Từ đó đến nay, Việt Nam trở thành quốc gia duy nhất có cơ chế Nhà nước độc quyền vàng, cùng với Bắc Triều Tiên. Sau qua 13 năm, độc quyền mang lại không phải là ổn định, mà là một thị trường vàng méo mó, kém minh bạch, không cạnh tranh và gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho nền kinh tế.

Những chỉ đạo của Tổng Bí thư mang tính bước ngoặt, không chỉ cho thị trường vàng mà còn cho nhiều thị trường khác. Ảnh: Chí Hiếu

Những chỉ đạo của Tổng Bí thư mang tính bước ngoặt, không chỉ cho thị trường vàng mà còn cho nhiều thị trường khác. Ảnh: Chí Hiếu

Chênh lệch giá vàng giữa thị trường trong nước và thế giới không ngày càng nới rộng, có những thời điểm 20 triệu đồng/lượng. Rốt cuộc là khởi phát ra nạn buôn lậu vàng mà ví dụ rất đau xót là đường dây nhập lậu 6 tấn vàng trị giá hơn 8.400 tỷ đồng từ Campuchia bị phát hiện, làm thất thoát ngoại tệ ra nước ngoài.

Việc gán nhãn “vàng quốc gia” cho thương hiệu SJC đã khiến hàng loạt thương hiệu vàng uy tín khác (cũng đạt hàm lượng 99,99%) bị mất giá, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và người tiêu dùng, triệt tiêu cạnh tranh – vốn thị trường lành mạnh.

Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước vừa là người quản lý, vừa là người chơi trong thị trường vàng, dẫn đến xung đột vai trò và làm suy yếu hiệu quả điều tiết thị trường.

Cuối năm 2024, cơ quan công an đã khởi tố 6 bị can ở công ty SJC, trong đó có bà Lê Thúy Hằng, Tổng Giám đốc Công ty SJC. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy, các bị can đã lợi dụng việc mua, bán vàng bình ổn giá, lập khống chứng từ, sổ sách để chiếm đoạt tiền, hưởng lợi bất chính.

Còn cơ chế độc quyền, thì còn những nhân vật trục lợi chính sách kể trên, vừa mất người, vừa mất của.

Hệ lụy là rất lớn

Báo cáo của Ban Chính sách, chiến lược Trung ương đã nêu nhiều hệ lụy như:

(1) Thị trường vàng được quản lý kém linh hoạt, không phù hợp với diễn biến cung cầu chung trên thị trường thế giới, gây hệ lụy cho nền kinh tế, nhất là tình trạng buôn lậu vàng, chảy máu ngoại tệ ra nước ngoài;

(2) Tồn tại tình trạng độc quyền trên thị trường, không kích thích cạnh tranh và thúc đẩy hoạt động kinh doanh vàng lành mạnh;

(3) Cơ chế, chính sách quản lý chưa tạo được động lực để huy động các nguồn lực nhàn rỗi trong dân cho phát triển kinh tế - xã hội, người dân đầu tư nhiều vào vàng;

(4) Phương thức quản lý chủ yếu vẫn theo cách truyền thống, chậm được đổi mới, thiếu những hình thức kinh doanh hiện đại, bắt kịp xu hướng của thế giới.

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý chứ không phải doanh nghiệp, nên việc giao cơ quan này độc quyền sản xuất vàng miếng theo Nghị định 24 là không phù hợp, vì vàng miếng là hàng hóa.

Việc người dân mua vàng là phản ứng trước lo ngại lạm phát, bất ổn kinh tế – là hệ quả chứ không phải nguyên nhân. Nhóm nghiên cứu của đại học Fulbright khẳng định, sốt vàng ở Việt Nam xảy ra hoặc do bất ổn vĩ mô, hoặc do giá vàng thế giới tăng cao, hoặc cả hai.

Các báo cáo của Chính phủ về kinh tế - xã hội trong nhiều năm nay đều khẳng định, kinh tế vĩ mô đã ổn định.

Đây chính là thời điểm thích hợp để sửa đổi Nghị định 24, phù hợp với định hướng kinh tế thị trường.

Tổng Bí thư nêu rõ 9 giải pháp:

(1) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nhanh chóng sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP theo hướng thị trường hóa có lộ trình và có kiểm soát chặt chẽ; tạo sự kết nối hiệu quả hơn giữa thị trường vàng trong nước và thị trường quốc tế.

(2) Xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước về thương hiệu vàng miếng một cách có kiểm soát trên nguyên tắc Nhà nước vẫn quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng, nhưng có thể cấp phép cho nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia sản xuất vàng miếng nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, từ đó giúp đa dạng hóa nguồn cung và ổn định giá cả;

(3) Mở rộng quyền nhập khẩu có kiểm soát để tăng cung vàng, góp phần giảm chệnh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới, đồng thời hạn chế tình trạng buôn lậu vàng qua biên giới;

(4) Khuyến khích phát triển thị trường vàng trang sức trong nước để từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế tác, xuất khẩu vàng trang sức chất lượng cao, chuyển hóa vàng tích trữ thành sản phẩm có giá trị gia tăng;

(5) Phát triển các kênh đầu tư thay thế hấp dẫn để huy động vàng từ trong dân cư vào nền kinh tế;

(6) Nâng cao hiệu quả quản lý và phối hợp liên ngành, nhất là trong phòng, chống buôn lậu vàng;

(7) Phát huy vai trò của Hiệp hội kinh doanh vàng, làm cầu nối giữa doanh nghiệp vàng với cơ quan quản lý, kịp thời phản ánh khó khăn, kiến nghị và phối hợp thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường khi cần;

(8) Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và niềm tin vào đồng tiền Việt Nam, coi đây là giải pháp căn bản, lâu dài để chuyển hóa nguồn lực từ vàng vào phát triển kinh tế;

(9) Sớm xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về thị trường vàng nhằm tăng tính công khai, minh bạch, để thu thuế, quản lý, đánh giá tác động đối với thị trường vàng ngoại hối, tỷ giá, các kênh đầu tư khác nhau.

Tư Giang

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/na-phao-vao-tu-duy-khong-quan-duoc-thi-cam-2406374.html