Nâng vị thế cho nông sản xuất khẩu chủ lực
Nhiều nông sản chủ lực của Việt Nam như cà phê, hồ tiêu… đang đứng trước những cơ hội lớn trong xuất khẩu khi nhu cầu thị trường thế giới lớn, nguồn cung lại khan hiếm. Tuy nhiên, chỉ có đáp ứng các tiêu chuẩn, hoàn thiện các khâu thủ tục hồ sơ thì các HTX, doanh nghiệp mới có thể tận dụng 'sức nóng' của thị trường.
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, tháng 2/2025, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 4,4 tỷ USD, tăng 37,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 9,38 tỷ USD. Trong đó, hầu hết các mặt hàng chủ lực đều ghi nhận tăng trưởng, như cà phê, hạt tiêu, thủy sản…
Dư địa còn rất lớn
Năm 2024, lần đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu cà phê vượt 5 tỷ USD. Hai tháng đầu năm năm 2025, xuất khẩu cà phê đạt hơn 309.000 tấn, trị giá 1,72 tỷ USD, tuy giảm 22% về lượng nhưng tăng tới 37,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024 nhờ giá xuất khẩu tăng mạnh.
Đặc biệt, chỉ tính riêng tháng 2/2025, xuất khẩu cà phê Việt Nam đạt kỷ lục với 193.031 tấn, thu về 1,08 tỷ USD, lần đầu tiên vượt mốc 1 tỷ USD trong một tháng.
Giá cà phê nội địa chưa có dấu hiệu hạ nhiệt khi vẫn duy trì trên 130.000 đồng/kg bởi những lo lắng về nguồn cung vẫn chưa có dấu hiệu dừng.
Dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy, nhu cầu tiêu thụ cà phê toàn cầu niên vụ 2024/2025 có khả năng sẽ tăng thêm 5,1 triệu bao, đạt 168,1 triệu bao. Còn tồn kho cuối kỳ dự kiến giảm 1,5 triệu bao, xuống còn 20,9 triệu bao.
Mới đây, Viện Địa lý và Thống kê Brazil (IBGE) đã ước tính sản lượng cà phê của nước này - nơi cung cấp cà phê lớn nhất thế giới - năm 2025 chỉ đạt 52,8 triệu bao, giảm 7,5% do giảm sản lượng cà phê Arabica. Đây chính là gốc rễ cho việc giá cà phê thời gian tới sẽ khó có thể hạ ở mức thấp.
Còn đối với hạt tiêu, năm 2024, giá hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam đã đạt đến mức kỷ lục là 5.280 USD/tấn. Hai tháng đầu năm 2025, xuất khẩu đạt 28.000 tấn với 188,7 triệu USD, giảm 9,4% về lượng nhưng tăng 52% về giá trị.
Việt Nam đang là nhà xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất thế giới khi chiếm khoảng 40% sản lượng toàn cầu. Trong khi theo các dự báo ở trong nước và thế giới, sản lượng hồ tiêu toàn cầu năm 2025 tiếp tục giảm và sẽ tạo điều kiện đẩy giá hồ tiêu lên, thậm chí có thể chạm mốc 150.000 đồng/kg trong năm nay.

Dư địa xuất khẩu cà phê còn rất lớn.
Những dự báo về hai ngành hồ tiêu, cà phê cho thấy, nông dân, HTX và doanh nghiệp cần tập trung sản xuất, chế biến và tiêu thụ để tận dụng thị trường giai đoạn này, vì dư địa về đầu ra, đặc biệt là xuất khẩu cho các mặt hàng này còn rất lớn và sôi động.
Vì sao cần tận dụng cơ hội xuất khẩu? Theo các chuyên gia, vì dù hạt tiêu, cà phê là nông sản chủ lực, đưa Việt Nam đứng thứ hai và thứ nhất về lượng xuất khẩu, nhưng tiêu thụ nội địa lại rất ảm đạm.
Ngay như mặt hàng cà phê, thống kê cho thấy, mỗi người Việt chỉ dùng trung bình khoảng 2,2 kg/năm, còn mức tiêu thụ cà phê trung bình toàn cầu hiện đã là 5,5 kg/người. Đặc biệt, tại Phần Lan, trung bình mỗi người có thể tiêu thụ 12kg cà phê/năm; tại Na Uy và Thụy Điển, mức tiêu thụ cà phê của mỗi người dân cũng khoảng 9-10 kg/năm.
Đối với hồ tiêu, 90-95% lượng hạt tiêu do Việt Nam sản xuất ra là phục vụ xuất khẩu, còn lại 5-10% là tiêu thụ nội địa.
Đảm bảo quy trình, hoàn thiện thủ tục
Dư địa thị trường đi cùng với những con số xuất khẩu vượt đỉnh khẳng định vị trí của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, một điều mà nhiều nông dân, HTX ngành cà phê, hồ tiêu đang lo lắng đó chính là vấn đề biến đổi khí hậu khiến khâu trồng và thu hoạch những nông sản này luôn rơi vào thế bị động.
Ông Nguyễn Trí Thắng, Giám đốc HTX Ea Tân (Đăk Lăk), cho biết thời tiết tại Tây Nguyên thay đổi thất thường, mùa khô kéo dài trong khi mưa xuất hiện vào giai đoạn cây cà phê phân hóa mầm hoa và thu hoạch, ảnh hưởng đáng kể đến năng suất và chất lượng cà phê.
Không dừng lại ở vấn đề biến đổi khí hậu, hiện nay, hàng rào kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu ngày càng gia tăng và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng.
Điển hình như EU - thị trường chiếm 41% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã đưa ra quy định chống phá rừng (EUDR), yêu cầu truy xuất nguồn gốc đến từng nông hộ. Việc đáp ứng quy định này đòi hỏi đầu tư lớn vào hệ thống giám sát, bản đồ số và chuỗi cung ứng bền vững. Điều này chỉ thuận lợi cho những nông hộ nào đã liên kết thành các HTX. Còn những hộ sản xuất nhỏ lẻ rất khó để hoàn thiện các quy trình sản xuất, vì thế không thể xuất khẩu.
Là một trong những đơn vị xuất khẩu cà phê thành công vào nhiều thị trường, ông Nguyễn Xuân Thao, Giám đốc HTX Cà phê Bích Thao (Sơn La), cho rằng hầu hết các thị trường hiện nay, trong đó có EU yêu cầu cao về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và đi kèm với những đánh giá xã hội của quy trình sản xuất, như môi trường, điều kiện lao động, quyền lợi người lao động…
Tuy nhiên, Việt Nam chưa đưa ra con số, chưa xây dựng được phương thức đánh giá cụ thể để các đơn vị sản xuất có thể đánh giá được các tiêu chí xã hội trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, để xuất khẩu thuận lợi, các HTX, doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến các hồ sơ, chứng từ. Ngay như giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) là chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền. C/O giúp xác nhận hàng hóa được sản xuất ở đâu và hưởng ưu đãi thuế quan theo FTA. Đây cũng là điều kiện để đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu (tránh hàng giả, gian lận thương mại).
Chẳng hạn đối với doanh nghiệp, HTX xuất khẩu cà phê sang EU, nếu những đơn vị này có C/O mẫu EUR.1 trong hồ sơ thì thuế nhập khẩu có thể giảm về 0% thay vì 7,5%.
Tuy nhiên, không phải sản phẩm nào cũng được cấp C/O. Mà để được cấp C/O, HTX, doanh nghiệp cần chứng minh được xuất xứ thuần túy hoặc hàm lượng giá trị nội địa (VCM) đạt yêu cầu theo FTA; nguyên vật liệu và quá trình sản xuất phù hợp với tiêu chí xuất xứ. Ngoài ra, HTX, doanh nghiệp phải có hồ sơ, chứng từ hợp lệ (hóa đơn thương mại (Packing List, vận đơn, tờ khai hải quan xuất khẩu…) thì mới được cung cấp đúng mẫu C/O.