Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ can thiệp; Tranh cãi ngân hàng không được thu giữ tài sản đảm bảo là nhà ở duy nhất
Tỷ giá tăng nóng, NHNN bán ngoại tệ can thiệp từ tuần tới, tranh cãi việc ngân hàng không được thu giữ tài sản đảm bảo là nhà ở duy nhất, phát hành trái phiếu USD, ngân hàng tiếp tục 'đua' tăng vốn... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.
Phát hành trái phiếu bằng USD: Huy động ngoại tệ trong dân hay nhắm vào nhà đầu tư ngoại?
Phát hành trái phiếu bằng USD thời điểm này sẽ giúp gia tăng dự trữ ngoại hối, thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, giảm gánh nặng với tín dụng ngân hàng và sức ép lên lãi suất, song cũng đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt khi lãi vay bằng USD không hề rẻ.
Khó khả thi nếu nhắm vào thị trường trong nước
Trong cuộc họp Ban Chỉ đạo cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, tổ chức vào đầu tháng 8, Phó thủ tướng Hồ Đức Phớc chỉ đạo ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, tham mưu giải pháp phát hành trái phiếu bằng USD.
Ông Trần Ngọc Báu, CEO WiGroup (công ty cung cấp dữ liệu kinh tế - tài chính) cho rằng, chủ trương nói trên là nỗ lực tìm giải pháp vừa huy động được nguồn USD trong dân, vừa hạn chế tác động tiêu cực lên tỷ giá. Nếu huy động thành công trái phiếu ngoại tệ trong dân, trường hợp có nhu cầu USD trả nợ nước ngoài, nguồn này sẽ không gây quá nhiều áp lực đến hệ thống ngân hàng cũng như thị trường ngoại hối.
Trong nửa đầu năm nay, Kho bạc Nhà nước có 11 đợt chào mua ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại, với tổng quy mô khoảng 1,9 tỷ USD. Đây là một trong những lý do gây sức ép lên tỷ giá, khiến VND tiếp tục mất giá so với USD, dù USD Index giảm sâu trên thị trường thế giới.
Cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước chưa có thông tin thêm về việc phát hành trái phiếu bằng USD, song giới chuyên gia có ý kiến rất khác nhau đối với vấn đề này.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, một chuyên gia kinh tế cho rằng, phát hành trái phiếu bằng USD, nếu nhắm vào thị trường nội địa, thì sẽ rất khó khăn, vì những lý do sau:
Thứ nhất, lượng ngoại tệ trong dân có thể không nhiều, vì thời gian qua, do chính sách lãi suất tiền gửi USD là 0%, nên không ít người dân chuyển từ USD sang tiền đồng.
Thứ hai, theo quy định hiện hành, cá nhân không được mua trái phiếu chính phủ (TPCP), trong khi đó, các tổ chức tín dụng - đối tượng mua TPCP chủ yếu hiện nay - cũng khó tham gia mua trái phiếu USD của Chính phủ, vì bản thân ngân hàng cũng đang khan ngoại tệ, chưa kể kỳ hạn phát hành trái phiếu của Chính phủ thường rất dài.
Thứ ba, về lãi suất, nếu phát hành trái phiếu bằng USD trong nước với lãi suất thấp, thì sẽ không thành công, còn nếu phát hành với lãi suất cao, thì sẽ khiến tình trạng đô la hóa tăng trở lại, gây áp lực lên tỷ giá.
Theo chuyên gia này, phát hành trái phiếu bằng USD sẽ khả thi hơn, nếu áp dụng với nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lãi suất huy động trái phiếu USD trên thế giới hiện cũng không rẻ.
Sử dụng vốn có địa chỉ để tối ưu phương án gọi vốn quốc tế
Các chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng, nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn tới rất lớn, do đó, việc phát hành trái phiếu công trình bằng VND hoặc ngoại tệ là hợp lý, giúp Nhà nước có thêm nguồn để bù đắp bội chi, mà không ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường và nhắm tới nhà đầu tư quốc tế sẽ khả thi hơn nhà đầu tư trong nước.
Trong quá khứ, Việt Nam đã có 3 đợt phát hành trái phiếu bằng USD (đợt 1 vào giai đoạn 2005 - 2006; đợt 2 vào năm 2010 và đợt 3 vào năm 2014).
Theo ông Nguyễn Minh Tuấn, Tổng giám đốc AFA Capital, thời điểm hiện tại khá thuận lợi để phát hành trái phiếu USD. Lý do là, tỷ trọng vay nợ nước ngoài của Chính phủ đang khá thấp và được kiểm soát, nên Việt Nam còn nhiều dư địa để vay nợ nước ngoài. Bên cạnh đó, xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể (các tổ chức uy tín hàng đầu thế giới là Fitch Ratings, S&P và Moody’s đều nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam), giúp Việt Nam có cơ hội huy động vốn quốc tế với chi phí rẻ hơn. Ngoài ra, lãi suất USD trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm (Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ có khả năng tiếp tục giảm lãi suất vào tháng 9 tới).
Từ những phân tích trên, ông Nguyễn Minh Tuấn nhận định, việc phát hành trái phiếu bằng USD không chỉ bổ sung vốn cho nền kinh tế, giảm sức ép lên lãi suất, mà còn giúp tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.
Mặc dù vậy, khi phát hành trái phiếu bằng USD, các chuyên gia cũng cảnh báo nhiều thách thức. Trong bối cảnh tỷ giá chịu nhiều sức ép như hiện nay, việc vay thêm bằng USD sẽ gây thêm áp lực cho tỷ giá. Dù xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đã được cải thiện, song vẫn đang thuộc nhóm được khuyến nghị đầu cơ thay vì nhóm đầu tư, điều này khiến Việt Nam vẫn phải chịu lãi suất khá cao khi huy động trái phiếu USD. Theo ước tính của các chuyên gia, tham chiếu lãi suất trái phiếu USD kỳ hạn 10 năm của Mỹ hiện nay cộng với phần biên độ rủi ro của Việt Nam, thì khả năng Việt Nam phải huy động trái phiếu USD với lãi suất 6 - 7%/năm (chưa tính tới mức độ trượt giá của VND).
Chính vì vậy, mặc dù ủng hộ phương án phát hành trái phiếu bằng USD để bổ sung nguồn lực cho nền kinh tế trong bối cảnh nhu cầu đầu tư lớn, song các chuyên gia khuyến nghị, Chính phủ cần xác định rõ mục đích gọi vốn để có phương án gọi vốn hiệu quả.
Ông Phan Lê Thành Long, Chủ tịch sáng lập AFA Capital cho rằng, nếu huy động cho các Dự án phát triển bền vững, dự án xanh, thì có thể đạt lãi suất tốt hơn và kỳ hạn dài hơn.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng kiến nghị Chính phủ đẩy mạnh truyền thông, giúp thế giới thấy được một Việt Nam tăng trưởng ổn định, có công cụ giữ ổn định tỷ giá, lãi suất, nợ công, rủi ro quốc gia ở mức trung bình - thấp. Đồng thời, cũng cần quan tâm cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia, bởi yếu tố này liên quan trực tiếp đến lãi suất vay của Chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ có kỳ hạn can thiệp thị trường từ tuần sau, cho phép hủy ngang
Việc bán ngoại tệ thông qua hợp đồng kỳ hạn cho các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ âm sẽ được NHNN thực hiện trong tuần sau (ngày 25/8 và 26/8). Các hợp đồng có kỳ hạn 180 ngày, cho phép hủy ngang 2-3 lần.
Trong bối cảnh tỷ giá tăng nóng, ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa thông báo kế hoạch bán ngoại tệ thông qua hợp đồng kỳ hạn, có hủy ngang trong 180 ngày.
Thời điểm áp dụng vào ngày 25-26/8. Tỷ giá bán kỳ hạn trong hai ngày này là 26.550 đồng/USD.
Đối tượng được mua ngoại tệ từ NHNN là các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ âm. Mức ngoại tệ bán ra tối đa cho mỗi ngân hàng trong mỗi lần giao dịch tương đương mức để đưa trạng thái ngoại tệ của tổ chức tín dụng về mức cân bằng.
Nếu giá trị giao dịch kỳ hạn từ 100 triệu USD trở lên, tổ chức tín dụng được phép hủy tối đa ba lần. Nếu giá trị giao dịch kỳ hạn dưới 100 triệu USD, các tổ chức tín dụng được hủy tối đa hai lần.
Thời hạn hủy ngang đối với mỗi giao dịch mua ngoại tệ kỳ hạn có hủy ngang của tổ chức tín dụng từ NHNN chậm nhất là 1 ngày làm việc trước ngày đáo hạn của giao dịch đó.
Động thái can thiệp thị trường được NHNN đưa ra khi tỷ giá trên thị trường liên tục tăng nóng. Cuối tuần qua (22/8), NHNN đã tăng mạnh tỷ giá trung tâm 25 đồng lên mức cao kỷ lục ở 25.295 đồng/USD.
Các ngân hàng thương mại cũng tăng mạnh giá bán USD. Trong tuần, các ngân hàng liên tục nâng giá bán USD ở mức kịch trần. Sau thông báo bán ngoại tệ can thiệp thị trường của NHNN, giá USD bán ra tại các ngân hàng giảm nhẹ, song so với đầu năm, tỷ giá vẫn tăng tới 3,8%.
Theo các chuyên gia phân tích, việc bán USD có kỳ hạn cho phép hủy ngang (những lần can thiệp trước là bán USD giao ngay) là động thái hết sức linh hoạt của NHNN, vừa giúp ổn định tâm lý thị trường, vừa giải quyết vấn đề thanh khoản hiện tại, vừa giữ được "kho" dự trữ ngoại hối trong trường hợp tỷ giá bớt căng thẳng hơn trong 6 tháng cuối năm.
Thông báo của NHNN đưa ra ngưỡng chặn 26.550 đồng/USD cho tỷ giá, xóa bỏ tâm lý NHNN tiếp tục điều chỉnh trần tỷ giá. Trong trường hợp Fed giảm lãi suất tháng 9 tới, cộng với việc nguồn cung ngoại tệ dồi dào hơn 6 tháng cuối năm (nhờ xuất khẩu, kiều hối, giải ngân FDI...) thì rất có thể nhiều tổ chức tín dụng sẽ hủy ngang hợp đồng mua ngoại tệ từ NHNN, theo đó, "kho" dự trữ ngoại hối sẽ không bị ảnh hưởng.
Trong nửa đầu năm nay, tỷ giá trong nước chịu nhiều áp lực do cầu mua ngoại tệ trả nợ của Chính phủ tăng, xuất siêu giảm so với năm trước, chênh lệch VND - USD vẫn cao kích thích đầu cơ... Việc tỷ giá tăng gần 4% từ đầu năm đến nay khiến dư địa điều hành tỷ giá 4 tháng cuối năm còn lại rất hạn hẹp.
So với cuối năm ngoái, chỉ số USD Index đã giảm 10,5%. Ngày 22/8, tại hội nghị thường niên của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Chủ tịch Fed Jerome Powell đã có bài phát biểu trước các nhà kinh tế học và giới hoạch định chính sách. Ông nhận định thị trường lao động Mỹ đang ở trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, sự cân bằng này được tạo ra do "cả nguồn cung và nhu cầu lao động cùng đi xuống".
Chủ tịch Fed cho hay, tỷ lệ thất nghiệp và các thước đo khác của thị trường lao động vẫn ổn định, cho phép Fed thận trọng khi cân nhắc thay đổi lập trường chính sách. Tuy nhiên, khi chính sách tiền tệ vẫn ở vùng thắt chặt, sự biến động về cán cân rủi ro có thể khiến Fed phải thay đổi.
Dù để ngỏ khả năng điều chỉnh lãi suất, song ông Powell không tiết lộ lãi suất sẽ giảm mức nào và bao giờ giảm. Giới đầu tư hiện đang đặt cược rất cao về khả năng Fed giảm lãi suất trong tháng 9 tới. Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump khẳng định Mỹ hiện không lạm phát và liên tục yêu cầu Fed giảm lãi ngay.
Cuộc đua tăng vốn điều lệ của các ngân hàng
Phát hành cổ phiếu chia cổ tức, phát hành cổ phiếu ESOP để tiếp tục tăng vốn điều lệ…, các ngân hàng đang “chạy đua” tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị rủi ro quốc tế.
Cuộc đua tăng vốn bước vào giai đoạn cao trào
ngân hàng OCB dự kiến phát hành gần 197,3 triệu cổ phiếu để tăng vốn cổ phần từ nguồn vốn chủ sở hữu với tỷ lệ phát hành 8% (cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ nhận được 8 cổ phiếu mới). Nguồn thực hiện từ vốn chủ sở hữu tại ngày 31/12/2024, xác định theo báo cáo tài chính riêng và hợp nhất đã được kiểm toán sau khi trích lập các quỹ theo quy định.
Mới đây, SHB cũng thông qua việc triển khai phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn chia cổ tức năm 2024 bằng cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu. Trước đó, kế hoạch tăng vốn của SHB đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. SHB sẽ phát hành tối đa gần 528,5 triệu cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ phát hành 13% trên tổng số cổ phần đang lưu hành (cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ nhận được thêm 13 cổ phiếu). Số cổ phiếu phát hành thêm không bị hạn chế chuyển nhượng.
Trong khi đó, VietABank chốt danh sách cổ đông vào ngày 15/8/2025 để phát hành thêm cổ phiếu tăng vốn cổ phần từ nguồn vốn chủ sở hữu. Ngân hàng dự kiến phát hành hơn 276,4 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, tỷ lệ 100:51,19, tương ứng cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu sẽ được 1 quyền và cứ 100 quyền sẽ nhận được 51,19 cổ phiếu phát hành thêm. Số cổ phiếu lẻ thập phân (nếu có) sẽ bị hủy bỏ. Nguồn vốn phát hành là lợi nhuận lũy kế chưa phân phối tại thời điểm ngày 31/12/2024 (hơn 2.604 tỷ đồng) và Quỹ Dự trữ bổ sung vốn điều lệ (hơn 160 tỷ đồng). Sau phát hành, VietABank sẽ tăng vốn điều lệ thêm 2.764 tỷ đồng, từ gần 5.400 tỷ đồng lên mức 8.164 tỷ đồng.
Trong nửa đầu năm 2025, bức tranh vốn điều lệ ngành ngân hàng không chỉ mở rộng về quy mô, mà còn thay đổi mạnh về thứ hạng. Sự bứt tốc của nhiều ngân hàng lớn cho thấy, cuộc đua tăng vốn đang bước vào giai đoạn cao trào, nhất là khi áp lực tuân thủ chuẩn Basel III ngày càng rõ nét.
Theo thống kê đến hết quý II/2025, top 10 ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất gồm Vietcombank, VPBank, Techcombank, BIDV, MB, VietinBank, ACB, SHB, HDBank và LPBank.
Nâng Hệ số An toàn vốn
Xét về mức tăng trưởng, có 10 ngân hàng ghi nhận vốn điều lệ tăng tính đến hết tháng 6/2025. Trong đó, Vietcombank tăng trưởng mạnh nhất với tỷ lệ 49,5%, vốn điều lệ được nâng từ 55.891 tỷ đồng, lên 83.557 tỷ đồng. PGBank ghi nhận mức tăng trưởng 19%. Các ngân hàng BVBank, Bac A Bank, SeABank cũng có sự thay đổi trong quy mô vốn điều lệ, tính đến hết tháng 6, với vốn điều lệ lần lượt là 6.208 tỷ đồng (tăng 12,5%), 9.580 tỷ đồng (tăng gần 7%) và 28.450 tỷ đồng (tăng 0,4%).
Với lộ trình nâng Hệ số An toàn vốn (CAR) tối thiểu lên 10,5% vào năm 2033, việc tăng vốn điều lệ không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc. Những bước đi mạnh mẽ từ đầu năm 2025 cho thấy, các ngân hàng đang “chạy đua” để đảm bảo nội lực đủ mạnh, sẵn sàng để cạnh tranh thị phần và đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị rủi ro quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định về tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại (NHTM), chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư này hướng dẫn cách xác định và giá trị tối thiểu của các tỷ lệ an toàn vốn mà các ngân hàng cần phải duy trì, gồm tỷ lệ vốn lõi cấp 1, tỷ lệ vốn cấp 1 và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Theo đó, NHTM không có công ty con, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì các tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ, gồm: tỷ lệ vốn lõi cấp 1 tối thiểu 4,5%; tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 6%; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%. Đối với NHTM có công ty con, các tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và hợp nhất cũng phải đáp ứng các mức tương ứng: vốn lõi cấp 1 tối thiểu 4,5%, vốn cấp 1 tối thiểu 6% và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%.
Thông tư số 14/2025/TT-NHNN lần đầu đưa ra các quy định về các bộ đệm vốn, gồm bộ đệm bảo toàn vốn (CCB), bộ đệm vốn phản chu kỳ (CCyB) và bộ đệm vốn cho các NHTM có tầm quan trọng hệ thống. Thông tư có hiệu lực thi hành từ 15/9/2025.
PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân (Trường đại học kinh tế TP.HCM) nhận định, những động thái trên thể hiện quyết tâm của các ngân hàng trong áp dụng chuẩn mực quốc tế, góp phần tăng cường hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn hơn nữa. So với Basel II, Basel III có nhiều yêu cầu mới, khắt khe hơn. Việc triển khai Basel III đòi hỏi đầu tư nguồn lực tài chính lớn cũng như sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ phía các ngân hàng.
Không được thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ngân hàng có thể siết chặt cho vay
Các ngân hàng thương mại lo lắng, quy định không được thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất” sẽ khiến việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm mất ý nghĩa. Nếu quy định này có hiệu lực, các nhà băng sẽ siết chặt hơn khi cho vay, kể cả khi khách hàng có tài sản bảo đảm.
Nhiều quan điểm về quy định không được thu giữ “nhà ở duy nhất”
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ. Theo đó, để tránh tình trạng chiếm hữu bất hợp pháp hoặc lạm quyền, Dự thảo đưa ra quy định cụ thể về điều kiện thu giữ. Một trong những điều kiện thu giữ đang gây tranh cãi là: tài sản bảo đảm không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm.
Ngân hàng Nhà nước đề xuất định nghĩa khái niệm “nhà ở duy nhất” là công trình xây dựng duy nhất thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, nơi bên bảo đảm ở và sinh sống ổn định, lâu dài hoặc thường xuyên sinh sống.
Theo luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLAW, đây là một đề xuất rất nhân văn trong việc thu giữ tài sản bảo đảm. “Việc thực thi quy định này sẽ đảm bảo người dân có quyền về nhà ở, không làm bần cùng hóa những người đi vay nợ”, luật sư Nguyễn Thanh Hà nhận xét.
Tuy vậy, trao đổi với Báo Đầu tư, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, nhiều ngân hàng thương mại không tán thành quy định này. Bảo vệ quyền nhà ở của công dân theo quy định của Hiến pháp là đúng, song quy định cũng phải hợp lý để đảm bảo hài hòa quyền lợi giữa bên vay và bên cho vay.
“Có khách hàng chỉ có một nhà ở duy nhất, nhưng tài sản đó có giá trị lên tới cả trăm tỷ đồng. Nếu khách hàng thế chấp tài sản bảo đảm này để vay vốn, nhưng không trả nợ, cũng không chịu bàn giao tài sản cho ngân hàng xử lý, thì rất vô lý. Để đảm bảo quyền nhà ở cho khách hàng, ngân hàng có thể mua cho khách hàng một căn nhà giá trị thấp hơn để ở, đồng thời thu giữ tài sản bảo đảm đó để xử lý nợ xấu. Nhà ở rộng ngàn mét vuông, giá trị ngàn tỷ đồng hay nhà ở 10 m2 cũng đều là nhà. Dự thảo Nghị định cần quy định hợp lý hơn để đảm bảo quyền lợi của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm”, ông Hùng đề nghị.
Điều kiện cho vay có thể sẽ siết chặt hơn
Lãnh đạo một ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân bày tỏ, nếu quy định trong Dự thảo Nghị định về điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ có hiệu lực (ngân hàng không được thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”), các ngân hàng sẽ hạn chế cho vay đối với những trường hợp khách hàng chỉ có một nhà ở và ưu tiên khách hàng có từ 2 nhà ở trở lên. Điều này sẽ gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn khách hàng.
Thách thức lớn trong thu hồi nợ
Luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng cho rằng, quy định này nếu đi vào thực tế sẽ gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng khi thu giữ tài sản bảo đảm.
“Để ứng phó với quy định này, các tổ chức tín dụng có thể sẽ siết chặt hơn quy định về cho vay, vì khi cho vay, ngoài mục đích lợi nhuận, các ngân hàng còn phải tính đến khả năng thu hồi vốn, khả năng trả nợ của khách hàng. Như vậy, quá trình thẩm định tín dụng sẽ khó khăn hơn. Đây là 2 mặt của một vấn đề mà chúng ta cần tính đến khi xây dựng Nghị định”, luật sư Nguyễn Thanh Hà bình luận.
Ngoài quy định về “nhà ở duy nhất”, Dự thảo Nghị định cũng quy định, ngân hàng chỉ được thu giữ với tài sản bảo đảm không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm. Về vấn đề này, các ngân hàng thương mại cũng nêu quan điểm, nên quy định theo hướng “tài sản bảo đảm không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất đang hoạt động của bên bảo đảm”.
Chẳng hạn, “công cụ lao động” được khách hàng sử dụng làm tài sản bảo đảm là một con tàu đánh cá hoặc xà lan chở hàng. Trong trường hợp tàu cá hay xà lan này đang hoạt động và là phương tiện sinh nhai duy nhất của khách hàng, thì cấm ngân hàng thu giữ là đúng. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản bảo đảm bị “phơi nắng” cả năm trời và không hoạt động, thì nên cho phép ngân hàng thu giữ để xử lý nợ.
Trên thực tế, hầu hết ngân hàng không mấy quan tâm đến “công cụ lao động” khi cho vay, mà chỉ chú trọng tài sản bảo đảm là bất động sản, vì đây là tài sản có tính thanh khoản cao và thường chỉ tăng giá, chứ ít khi giảm giá.
Theo Ngân hàng Nhà nước, việc đưa ra các quy định cụ thể về điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ là nhằm tránh việc chiếm hữu bất hợp pháp hoặc tình trạng lạm dụng của các chủ nợ có thể tạo ra xung đột giữa những người dân, thậm chí là những bên không tham gia giao dịch tín dụng.
Tuy nhiên, các ngân hàng cho rằng, quyền thu giữ tài sản bảo đảm chỉ là “liệu pháp tâm lý”, là công cụ pháp lý, tránh trường hợp khách hàng bội tín, để khách hàng có ý thức trả nợ hơn. Mỗi tổ chức tín dụng đều có những quy định nội bộ hướng dẫn rất chặt chẽ, công khai, minh bạch về thu giữ tài sản bảo đảm, khó có chuyện lạm quyền. Việc thu giữ tài sản bảo đảm gây phản cảm cũng dễ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, nên trong trường hợp “bất đắc dĩ”, các ngân hàng mới sử dụng biện pháp này.
Tránh “lệch pha” tín dụng
Dù lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẳng định, cho vay lĩnh vực bất động sản vẫn đảm bảo các tỷ lệ an toàn, song cơ cấu vốn trong lĩnh vực này đang có những yếu tố tiềm ẩn rủi ro cho thị trường và cho cả hệ thống ngân hàng.
Một trong những biểu hiện rõ nhất, là từ đầu năm đến nay, tín dụng kinh doanh bất động sản tăng cao gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân chung toàn hệ thống. Riêng 6 tháng đầu năm, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 10%, trong đó tín dụng kinh doanh bất động sản ước tăng 20%.
Báo cáo tài chính quý II/2025 của một loạt ngân hàng như Techcombank, HDBank, SHB, MB… cũng cho thấy, cho vay kinh doanh bất động sản của những ngân hàng này tăng 20-35% so với cuối năm ngoái.
Đến thời điểm này, tín dụng bất động sản đã đạt mức kỷ lục (khoảng 3,2 triệu tỷ đồng). Không khó để lý giải vì sao, ngân hàng lại ồ ạt đổ vốn vào bất động sản. Như Thống đốc NHNN đã nói, tín dụng bất động sản tăng mạnh nửa đầu năm nay là phù hợp với định hướng tháo gỡ cho thị trường bất động sản. Bởi, khi Dự án được gỡ vướng về pháp lý, thì tất yếu nhu cầu vốn để triển khai cũng tăng.
Dưới góc nhìn độc lập, giới phân tích nhận định, trong bối cảnh sản xuất, tiêu dùng gặp nhiều khó khăn, thì động lực tăng trưởng chính là hạ tầng và bất động sản. Ngoài ra, khi cho vay bất động sản, tỷ lệ tổn thất thực tế rất thấp (do tài sản đảm bảo có tính thanh khoản cao). Đây là lý do khiến hai lĩnh vực này hút mạnh dòng vốn.
Dù tín dụng bất động sản tăng nhanh, song điều đáng mừng là theo NHNN, cho vay lĩnh vực này vẫn đảm bảo các chỉ số an toàn. Minh chứng là tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn hiện vẫn dưới ngưỡng 30%. Nhà điều hành cũng liên tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng cân đối vốn theo kỳ hạn, đảm bảo an toàn hệ thống.
Dù vậy, cơ cấu tín dụng bất động sản và cơ cấu vốn của thị trường bất động sản gần đây đang tồn tại một số điểm bất hợp lý.
Thứ nhất, về cơ cấu tín dụng, dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản tăng cao trong khi vay mua nhà, sửa nhà tăng chậm cho thấy, vốn ngân hàng chủ yếu chảy vào chủ đầu tư, trong khi người dân chưa mặn mà mua nhà để ở. Điều này cũng xuất phát từ tình trạng lệch pha trên thị trường, khi nguồn cung nhà ở bình dân và trung cấp ngày càng vắng bóng. Nguồn cung mới trên thị trường hầu hết là căn hộ cao cấp, còn căn hộ bình dân, trung cấp và nhà ở xã hội rất thiếu. Đây cũng là lý do khiến gói tín dụng 145.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, cũng như các gói tín dụng cho người dưới 35 tuổi giải ngân rất chậm.
Thứ hai, về cơ cấu vốn cho thị trường bất động sản, trước đây, cấu trúc nguồn vốn vay nợ của nhiều doanh nghiệp bất động sản dựa rất lớn vào trái phiếu, thậm chí lên tới 50-60%, song hiện đã giảm mạnh một nửa. Trong 7 tháng đầu năm nay, phát hành trái phiếu toàn thị trường tăng 63% so với cuối năm ngoái, nhưng riêng phát hành trái phiếu bất động sản chỉ tăng hơn 13%.
Thực tế cho thấy, khi tín dụng nới lỏng, lãi suất cho vay về đáy và ngân hàng cởi mở hơn với tín dụng bất động sản khiến nhiều chủ đầu tư không những không phát hành thêm trái phiếu mới, mà còn ráo riết trả nợ trái phiếu trước hạn, chuyển sang vay vốn ngân hàng. Việc doanh nghiệp tăng phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các lĩnh vực cần vốn dài hạn như bất động sản, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng, đặc biệt là rủi ro mất cân đối kỳ hạn.
Dù hiện tại, tín dụng bất động sản vẫn an toàn, nhưng nếu vẫn tăng mạnh và dòng vốn chủ yếu vẫn rót vào các dự án bất động sản cao cấp như hiện nay, thì thị trường khó tránh khỏi bất ổn.
Để khắc phục tình trạng này, không thể mong dợi vào sự điều chỉnh của các ngân hàng - vốn bị chi phối mạnh mẽ bởi mục tiêu lợi nhuận, lợi ích của cổ đông, mà cần tới bàn tay điều tiết của Nhà nước. Theo đó, NHNN, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành phải có giải pháp tăng cung nhà ở xã hội, giá ở bình dân và nắn tín dụng chảy vào những phân khúc này. Bên cạnh đó, tới đây, khi bỏ room tín dụng, NHNN cũng phải có những công cụ hiệu quả hơn để nắn dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên.
Giải pháp dài hạn, như Thống đốc NHNN đã nói, là phải phát triển mạnh thị trường vốn, đáp ứng tốt nhu cầu vốn trung, dài hạn, từ đó, giảm áp lực lên nguồn vốn ngắn hạn của hệ thống ngân hàng. Các lĩnh vực cần nguồn vốn trung, dài hạn lớn, như bất động sản và hạ tầng, cần huy động qua kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa phương hoặc các khoản vay quốc tế…, không thể mãi dựa vào tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng lớn khỏe lên vì bất động sản, ngân hàng nhỏ đuối sức vì huy động vốn
Dự báo, cạnh tranh huy động sẽ tăng mạnh trong nửa cuối năm, gây áp lực lên ngân hàng nhỏ. Trong khi đó, các ngân hàng lớn và nhóm big 4 sẽ tiếp tục dẫn dắt phục hồi, một phần nhờ hưởng lợi từ thị trường bất động sản.
Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng mới đây của các chuyên gia phân tích VIS Rating cho thấy, trong nửa đầu năm 2025, chất lượng tín dụng tại các ngân hàng lớn cải thiện khi tỷ lệ nợ xấu toàn ngành giảm còn 2,3%.
Các “ông lớn” như ACB, VietinBank, VPBank, MB ghi nhận nợ quá hạn giảm, chủ yếu nhờ thị trường bất động sản khởi sắc và nhiều vướng mắc pháp lý được tháo gỡ. Nhờ đó, lợi nhuận trên tài sản (ROAA) của nhóm này tăng, năng lực chống chịu rủi ro cũng được củng cố.
Tính đến hết quý II/2025, có tới 16/27 ngân hàng cải thiện NIM nhờ tăng cho vay bất động sản và xây dựng có lợi suất cao (ví dụ SHB, HDBank, Techcombank). Các ngân hàng big 4 và một số ngân hàng tư nhân như VPBank, SHB hưởng lợi nhờ chi phí tín dụng thấp và thu hồi nợ mạnh.
Ngược lại, các ngân hàng nhỏ vẫn “đuối sức” khi chi phí huy động tăng vì cạnh tranh gay gắt, trong khi phải trích lập dự phòng lớn. Một số ngân hàng như ABBank, NCB, KienLongBank cải thiện nhờ thu hồi nợ tốt, song không ít ngân hàng khác như Bản Việt, Sài Gòn Công thương, Việt Á… tiếp tục suy giảm lợi nhuận.
Tính đến hết quý II/2025, tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành giữ ở mức 80%, trong đó các ngân hàng lớn như MBB, VPB có cải thiện đáng kể. Ngược lại, nhiều ngân hàng tầm trung (TPB, LPB, VIB) bị bào mòn vốn do chi trả cổ tức tiền mặt cao.
Thanh khoản cũng là thách thức khi tín dụng đang tăng cao hơn huy động, tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) toàn ngành tăng lên 109%. Các ngân hàng lớn chủ động phát hành trái phiếu dài hạn và vay quốc tế để cân đối, trong khi các ngân hàng nhỏ lại dễ tổn thương, đặc biệt khi chịu áp lực rút tiền gửi.
VIS Rating dự báo, nửa cuối năm 2025, lợi nhuận toàn ngành sẽ tiếp tục phục hồi ổn định.
Trong đó, nhóm các ngân hàng lớn và quốc doanh tiếp tục dẫn dắt phục hồi, hưởng lợi từ bất động sản hồi phục và chính sách hỗ trợ. Riêng các ngân hàng nhỏ tiếp tục chịu áp lực thanh khoản, chi phí vốn tăng cao, lợi nhuận khó đồng đều.