Ngân hàng Nhà nước có quyền cho vay lãi suất 0%
Với 435/443 đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi). Trong đó có nội dung Ngân hàng Nhà nước được cho vay lãi suất 0%.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật sửa đổi.
Ngân hàng Nhà nước có quyền quyết định cho vay đặc biệt
Theo đó liên quan đến các ý kiến về tán thành việc phân cấp thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt đối với khoản vay có lãi suất 0%/năm, khoản vay không có tài sản bảo đảm từ Thủ tướng Chính phủ sang Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện quy định về lãi suất cho vay đặc biệt trên cơ sở ý kiến của cấp có thẩm quyền, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và cơ chế điều hành chính sách tiền tệ.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng. Ảnh: QH
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, thực hiện ý kiến của cơ quan có thẩm quyền, Chính phủ đề xuất điều chinh lời văn khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật nhằm đảm bảo việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước chi được thực hiện khi tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng rất khó khăn về thanh khoản 2 hoặc để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng.
Cụ thể: “Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay đặc biệt có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm đối với tổ chức tín dụng trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Luật này. Tài sản bảo đảm của khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm."
Bảo đảm quyền thu giữ tài sản bảo đảm và hoàn trả vật chứng
Một trong những nội dung thu hút sự quan tâm lớn tại quá trình xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng lần này là quy định về điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Đây được xem là giải pháp pháp lý then chốt nhằm tháo gỡ các vướng mắc tồn tại trong thực tiễn, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Liên quan đến vấn đề này, nhiều ý kiến nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm rõ vai trò, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan công an cấp xã, đặc biệt trong bối cảnh cả nước đang thực hiện sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính và xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bên cạnh đó, việc quy định rõ ràng thủ tục ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cũng được xem là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính công khai, minh bạch, chặt chẽ, đồng thời tránh phát sinh tranh chấp, khiếu kiện.

Với đại đa số đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi). Ảnh: QH
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ đã có báo cáo và giải trình chi tiết về vấn đề này. Cụ thể, các quy định tại điểm b, điểm c khoản 3, điểm b khoản 4 và khoản 5 của dự thảo Luật đã xác định rõ sự tham gia của UBND và Công an cấp xã trong toàn bộ quá trình thu giữ tài sản bảo đảm. Bà Hồng khẳng định, những nội dung này về cơ bản đã phù hợp với định hướng sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính và xây dựng chính quyền địa phương hai cấp.
Đối với việc kế thừa kinh nghiệm từ Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu, Chính phủ thống nhất tiếp thu và bổ sung các quy định nhằm tăng cường tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi của người liên quan. Cụ thể, dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 198a điều kiện: “Tài sản bảo đảm không phải là tài sản đang tranh chấp trong vụ án đã được tòa án thụ lý nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết”. Đồng thời, điểm c khoản 3 Điều 198a bổ sung quy định hình thức công khai thông tin thông qua việc “niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở UBND cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ và nơi có tài sản bảo đảm” trước khi tiến hành thu giữ bất động sản.
Tuy nhiên, đối với tài sản bảo đảm là động sản, do đặc thù dễ di chuyển, Chính phủ đề xuất giữ nguyên quy định về hình thức công khai thông tin như trong dự thảo Luật đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Để quy trình thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện chặt chẽ, vừa tháo gỡ khó khăn cho tổ chức tín dụng vừa hạn chế tối đa tranh chấp phát sinh, Chính phủ kiến nghị bổ sung điểm đ khoản 2 Điều 198a quy định rõ “tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ”.
Trên cơ sở đó, cơ quan soạn thảo sẽ phối hợp Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và các bộ ngành liên quan nghiên cứu điều kiện cụ thể, nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, đồng thời góp phần hiện thực hóa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Bên cạnh đó, để bảo đảm quy trình thu giữ được minh bạch, Chính phủ đề xuất chỉnh lý kỹ thuật tại khoản 3, khoản 4 Điều 198a theo hướng làm rõ trách nhiệm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán xử lý nợ trong việc công khai thông tin và ban hành quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thu giữ, bao gồm cả việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo khoản 7 Điều 198a.
Đối với kiến nghị quy định việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự hoặc là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, bà Hồng cho biết, Chính phủ đồng thuận tiếp thu. Theo đó, dự thảo Luật sẽ bổ sung quy định: Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy việc hoàn trả không ảnh hưởng đến xử lý vụ án hay thi hành án, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ hoàn trả tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán xử lý nợ, với điều kiện hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về quyền thu giữ.
Riêng đối với nội dung về hoàn trả tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, Chính phủ nhất trí rà soát và bỏ quy định này trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng để tập trung quy định thống nhất tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Điều này nhằm tránh chồng chéo và đảm bảo đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/ngan-hang-nha-nuoc-co-quyen-cho-vay-lai-suat-0-407877.html