Ngân hàng rốt ráo xử lý nợ xấu
Trước xu hướng nợ xấu tăng nhanh, nhất là nợ nhóm 3-5, các ngân hàng đang rốt ráo xử lý.

Nợ có khả năng mất vốn có xu hướng tăng nhanh.
Nợ có khả năng mất vốn tăng
Báo cáo từ Vietnam Report cho thấy, tỷ lệ nợ xấu quý I/2025 dù chỉ tăng nhẹ so với quý trước đó (tỷ lệ nợ xấu của hầu hết ngân hàng phổ biến từ 1,93-2,22%), nhưng cơ cấu các nhóm nợ đã có sự thay đổi. Đáng chú ý, nhóm nợ có khả năng mất vốn lập kỷ lục mới, chiếm 1,25% tổng dư nợ cho vay khách hàng.
Một số ngân hàng báo cáo tỷ lệ nợ xấu vượt 4%, cá biệt có những đơn vị vượt 14% trong quý I/2025, cho dù đã giảm mạnh từ mức 35,3% của cùng kỳ năm trước.
Tính theo giá trị tuyệt đối, tổng nợ xấu toàn hệ thống vào cuối quý I/2025 đã vượt 300.000 tỷ đồng, tăng 16,8% so với cùng kỳ 2024 và tăng 13,4% so với đầu năm. Các chuyên gia phân tích cảnh báo, rủi ro nợ xấu tăng đã hiện hữu khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN hết hiệu lực từ đầu năm nay.
Cụ thể, khi Thông tư 02 hết hiệu lực, các khoản nợ tái cơ cấu không còn được ưu đãi và phải phân loại lại, cho nên có thể đẩy một lượng nợ lớn vào nhóm nợ xấu.
Cơ cấu nợ xấu trong quý I/2025 cho thấy, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn, phải trích lập 100% dự phòng) tăng mạnh, chiếm tới 1,25% tổng dư nợ cho vay, tương đương hơn 176.000 tỷ đồng. Mức này cao hơn cả tổng nợ xấu của toàn hệ thống vào cuối năm 2022 và tăng 10,7% so với đầu năm 2025.
Tuy vậy, Vietnam Report đánh giá, mức gia tăng nợ xấu hiện vẫn trong tầm kiểm soát nhờ các ngân hàng đã chủ động trích lập dự phòng rủi ro tín dụng một cách thận trọng.
Trong quý I/2025, tổng dự phòng rủi ro hệ thống ngân hàng đạt khoảng 253.000 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ bao phủ nợ xấu 84,4%.
Năm 2024, chi phí trích lập dự phòng đã lên tới 163.200 tỷ đồng, tăng 13,1% so với năm trước. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của các ngân hàng nhìn chung duy trì sự ổn định, cho dù đã giảm xuống dưới mức 100% từ quý III/2023.
Tính đến nay, tỷ lệ LLR chưa phục hồi về mức lý tưởng để đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận. Song bộ đệm dự phòng có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng.
Nhóm ngân hàng có tổng tài sản trên 1 triệu tỷ đồng vẫn duy trì tỷ lệ LLR trên 125%, dù cũng chịu áp lực giảm. Trong khi đó, các ngân hàng quy mô nhỏ (tổng tài sản dưới 300.000 tỷ đồng) có tỷ lệ LLR rất thấp, từng rơi xuống đáy 29% vào quý II/2024 và hiện mới tăng lên khoảng 38%.
Báo cáo của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) vừa công bố cho thấy, 10 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhất quý I/2025 lần lượt là Vietcombank, VietABank, VietinBank, Techcombank, BAC A BANK, BIDV, SeABank, MBBank, Sacombank và LPBank. Như vậy, trong nhóm “Big 4”, duy nhất Agribank không nằm trong tốp 10 này.
Trong đó, dù giảm 7,2% so với cuối năm 2024, nhưng tính đến hết quý I/2025, Vietcombank vẫn là ngân hàng dẫn đầu thị trường về tỷ lệ bao phủ nợ xấu khi đạt mức 216,1%.
NIM (biên lãi ròng) thu hẹp và chưa có nhiều triển vọng cải thiện bởi các ngân hàng phải giảm lãi vay để hỗ trợ tăng trưởng, trong khi chi phí đầu vào khó giảm. Do đó, thu hồi nợ xấu là động lực quan trọng với các ngân hàng trong năm 2025, bù đắp cho việc hi sinh NIM đổi lấy tăng trưởng quy mô.
Với mức tăng mạnh mẽ, VietABank bất ngờ vươn lên vị trí thứ hai, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 72,5% cuối năm ngoái lên 150,2% cuối quý I/2025, chủ yếu nhờ việc cắt giảm một nửa số dư nợ xấu. VietinBank và Techcombank xếp vị trí thứ 3 và thứ 4, với tỷ lệ bao phủ lần lượt đạt 136,8% và 111,6% (giảm tương ứng 33,93% và và 2,36% so với cuối năm 2024).
Những vị trí còn lại trong Top 10 lần lượt thuộc về BAC A BANK (98,1% và tăng 0,7%), BIDV (96,8% và giảm 36,8%), SeABank (81,8% và giảm 1,1%), MBBank (75,3% và giảm 17%), Sacombank (74,7% và tăng 6,2%), LPBank (74,3% và giảm 9%).
Kỳ vọng công tác thu hồi nợ
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến các bên để xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024.
Những cơ chế đặc thù giúp các TCTD xử lý nợ xấu được kỳ vọng sớm ban hành trong thời gian tới sẽ hoàn thiện hơn khung pháp lý, giảm bớt áp lực trích lập dự phòng, luân chuyển dòng vốn quay trở lại thị trường.
Trước đó, trong giai đoạn 2017-2023, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD từng mở ra một cơ chế đặc thù, giúp TCTD xử lý tài sản nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Nhưng khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, các TCTD đã không còn cơ chế chủ động thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ. Trong khi đó, Luật Các TCTD 2024 chưa kế thừa nội dung quan trọng này.
PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên cấp cao Đại học Kinh tế TP.HCM nhận định, khi hàng trăm nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý, đó sẽ là dòng tiền quay trở lại thị trường phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều này, không chỉ chờ các doanh nghiệp tự xoay xở, mà cần sự tham gia của các bên liên quan.
Theo kế hoạch, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD 2024 được Chính phủ báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV và dự kiến thông qua tại phiên họp ngày 17/6/2025.
Nếu được thông qua, luật này được kỳ vọng sẽ tạo nên hành lang pháp lý minh bạch, đồng bộ và hiệu quả hơn cho công tác xử lý nợ xấu, cũng như hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng trong bối cảnh kinh tế nhiều biến động hiện nay.
Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký VNBA cho biết, Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu của Quốc hội hết hiệu lực từ cuối năm 2023 đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hồi và xử lý nợ xấu của các TCTD. Vì thế, nguồn xử lý nợ xấu chủ yếu đến từ việc các TCTD trích từ dự phòng rủi ro.
Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng, cũng như làm giảm nguồn lực hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Theo ông Hùng, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ tạo thêm điều kiện cho các ngân hàng trong xử lý nợ xấu đang tăng. Từ đó, khoản dự phòng rủi ro sẽ được giảm trích lập và làm tăng lợi nhuận.
Mặt khác, với triển vọng thị trường bất động sản tiếp tục ấm dần lên, các nhà phân tích của Công ty Chứng khoán BIDV (BSC) cho rằng, công tác thu hồi nợ xấu lĩnh vực này sẽ là “chiếc khiên dự phòng” cho các ngân hàng cán đích lợi nhuận 2025.
Cụ thể, nhóm ngân hàng thương mại tư nhân lên kế hoạch lợi nhuận 2025 tăng trưởng mạnh mẽ hơn so với các ngân hàng quốc doanh, trong đó các ngân hàng tư nhân quy mô lớn đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận trước thuế hơn 16% so với năm trước. Trong khi đó, Vietcombank đưa ra kế hoạch tăng trưởng lợi nhuận thận trọng ở mức 3,5%.
Lãnh đạo các ngân hàng cũng đánh giá, rủi ro trước mắt là chưa đáng kể, ít nhất trong nửa đầu năm 2025 với tình hình tăng trưởng khả quan. Nếu có điều chỉnh kế hoạch kinh doanh thì phải từ quý III/2025 trở đi, sau khi kết thúc thời hạn 90 ngày hoãn thuế của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Hiện tại, tín dụng tiếp tục được cải thiện khi theo thống kê của NHNN, tính đến cuối tháng 5/2025, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52% - cao hơn đáng kể so với mức 2,41% cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, NIM (biên lãi ròng) thu hẹp và chưa có nhiều triển vọng cải thiện bởi các ngân hàng phải giảm lãi vay để hỗ trợ tăng trưởng, trong khi chi phí đầu vào khó giảm. Do đó, thu hồi nợ xấu là động lực quan trọng với các ngân hàng trong năm 2025, bù đắp cho việc hi sinh NIM đổi lấy tăng trưởng quy mô.
Đơn cử, VietinBank kỳ vọng lợi nhuận từ thu hồi nợ năm nay đạt 10.000 tỷ đồng trong kịch bản cơ sở (so với mức 8.500 tỷ đồng của năm trước) và phấn đấu đạt từ 12.000-14.000 tỷ đồng.
Với Sacombank, một phần trọng tâm của quá trình tái cơ cấu là xử lý các khoản vay liên quan đến nhóm khách hàng cũ. Tổng dư nợ gốc của nhóm này tại thời điểm cuối năm 2016 là 35.400 tỷ đồng, với lãi dự thu khoanh theo đề án là 12.919 tỷ đồng.
Nhưng lũy kế từ năm 2017 đến cuối năm 2024, Sacombank đã thu hồi được 25.612 tỷ đồng, bao gồm 23.363 tỷ đồng nợ gốc và 2.249 tỷ đồng tiền lãi. Lợi nhuận trước thuế 2024 vượt 10.000 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm về 2,4%.
Theo báo cáo tại đại hội đồng cổ đông thường niên 2025, tổng giá trị tài sản tồn đọng của Sacombank vào khoảng 93.000 tỷ đồng, gồm 35.000 tỷ đồng dư nợ gốc và 58.000 tỷ đồng lãi cùng các khoản phải thu. Ngân hàng đã trích lập dự phòng đầy đủ cho toàn bộ số dư này nên công việc còn lại chủ yếu là thanh lý tài sản bảo đảm để thu hồi tiền.
Theo Vietnam Report, năm 2025 hứa hẹn tiếp tục là một năm tích cực cho ngành ngân hàng Việt Nam, khi các “cơn bão” lớn đã lùi lại phía sau và nền tảng tăng trưởng đang được tái thiết vững chắc.
Tuy nhiên, nền kinh tế toàn cầu vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định có thể tác động gián tiếp đến nhu cầu tín dụng trong nước, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh ngành ngân hàng. Trong bối cảnh đó, một trong những thách thức quan trọng nhất vẫn là khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng.
Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/ngan-hang-rot-rao-xu-ly-no-xau-post371336.html