Ngăn ngừa trộm cướp từ trong trứng

Túng đói và được quan lại dung túng là những nguyên nhân sinh ra trộm cướp từ xưa. Các triều đại quân chủ Việt Nam đã có những biện pháp để phòng ngừa và trừng trị trộm cướp.

Trộm cướp do đâu?

Dân đói do mất mùa, loạn lạc, chính là nguyên nhân đầu tiên gây ra trộm cướp. Đọc trong chính sử, có thể thấy rõ thời Vua Lý Cao Tông, năm Trị Bình Long Ứng thứ 4 (1208), “Đại Việt sử ký toàn thư”, viết: “Đói to, người chết đói nằm gối lên nhau”. Vậy mà tướng coi quân ở Nghệ An là Phạm Du lại làm phản, thu nạp những kẻ vong mệnh và trộm cướp, gọi là "hậu nhân" (người do thám), chia đi cướp bóc các nơi. Người châu Quốc Oai cũng đem bè lũ đến đóng ở Tây Kết, đường sá vì thế không thông. Vua sai Thượng phẩm phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem quân châu Đằng đến đánh.

Cảnh dẫn giải tội phạm thời xưa.

Cảnh dẫn giải tội phạm thời xưa.

Năm sau (1209), nạn đói chưa dứt, nên người ở động Trư là Nguyễn Phá Lân đem bộ khúc đêm đến lấy trộm của kho công ở Đội Sơn (núi Đọi, Duy Tiên, Hà Nam, nay là tỉnh Ninh Bình).

Sang thơi Trần, đời Vua Trần Dụ Tông, năm Thiệu Phong thứ 3 (1343), sử cũ cho biết, năm đó mùa hè có hạn nặng, dù nhà vua đã “xuống chiếu ban giảm một nửa thuế nhân đinh năm này”, nhưng vẫn xảy ra hiện tượng “năm này mất mùa, đói kém, dân nhiều kẻ làm trộm cướp, nhất là gia nô các vương hầu”.

Như vậy, trộm cướp cũng chủ yếu là dựa vào quyền uy, khi gia nô của các vương hầu mới là những kẻ làm loạn nhiều nhất.

Hay, khi Vua Lê Tương Dực qua đời, sử quan đời sau đánh giá lại sự nghiệp của vị vua này, nhận định rằng: “Dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy”.

Còn trong thời chinh chiến, loạn lạc, như lúc Nam - Bắc triều của vua Lê, chúa Trịnh trong Thanh - Nghệ và nhà Mạc ngoài Bắc, sử ghi trộm cướp nổi lên nhiều lắm. Như đời Vua Lê Thế Tông, niên hiệu Quang Hưng năm thứ 13 (1590), “Toàn thư” chỉ viết ngắn gọn: “Năm ấy, trộm cướp rất nhiều”.

Đến tháng cuối năm 1595, lại chép: “Trộm cướp nổi lên khắp nơi, đốt nhà giết người, cướp bóc của cải, gia súc”. Sang năm sau, câu chuyện được mô tả chi tiết hơn: “Bấy giờ đại hạn, thóc lúa vụ chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không kết trái. Trộm cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến 700- 800 đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải, gia súc, thủy bộ không thông, đường sá bế tắc, dân đói nhiều, chết đến quá nửa”.

Nhưng, mỗi khi mất mùa, đói kém, nếu triều đình chăm lo cho dân bớt đói thì trộm cướp cũng bớt dần. Còn loại tội phạm dựa vào quyền uy thì đời nào cũng có. Ngay từ thời Lê sơ, về cái chết của Vua Lê Trung Tông (năm 1005), “Toàn thư” viết mỗi vài chữ: “Vua lên ngôi được 3 ngày thì bị Long Đĩnh giết”. Nhưng, phần phụ chú, sử thần Ngô Sĩ Liên bổ sung rằng: “Sách “Dã sử” chép rằng: “Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông”. Như vậy, bọn trộm cướp không chỉ cướp của, mà dưới sự chỉ đạo của bậc vương tôn tham vọng, chúng còn cướp cả tính mạng của đương kim hoàng đế.

Hay, đời Vua Lý Cao Tông, đầu năm 1181, trộm cướp nổi lên lại do nguyên nhân là “thái tử cũ là Long Xưởng cầm đầu bọn gia thuộc nô lệ trộm cướp bừa bãi, muốn mưu làm loạn”.

Thời hậu Lê cũng vậy, đời Vua Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa thứ 7 (1449) con của vị Thiếu úy Lê Lan là Lê Nhân Lập cùng với người trong kinh là bọn Nguyễn Thọ Vực họp nhau đánh bạc, trộm cướp, sau lại sợ bọn ấy tiết lộ ra, đã sai người đến tận nhà dụ đến mà giết. Việc phát giác, triều đình bắt giam ngục rồi đều chém cả. Lê Lan bị phạt biếm 2 tư vì không biết dạy con.

Nghiêm pháp luật

Luật pháp để ngăn chặn tội trộm cướp đã được hình thành khá sớm. Năm 1042, trước khi triều Lý ban hành bộ Hình thư, Vua Lý Thái Tông đã có chiếu chỉ quy định, kẻ nào ăn trộm trâu của công thì xử 100 trượng, 1 con phạt thành 2 con. Thời đó có lẽ triều đình thấy trộm trâu là nguy hại cho nền sản xuất và an ninh nhất, nên pháp luật tập trung vào việc điều chỉnh vấn đề này.

Đời Vua Lý Nhân Tông, năm 1117, triều đình lại định rõ lệnh cấm giết trộm trâu, vì Linh nhân Hoàng thái hậu (tức bà Ỷ Lan) nói: "Gần đây ở kinh thành, hương ấp, có nhiều người trốn tránh, lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trăm họ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây, ta từng nói đến việc ấy nhà nước đã có lệnh cấm. Nay giết trâu lại càng nhiều hơn trước". Do đó, nhà vua xuống chiếu kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân đội), vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ (phục dịch ở trại trồng dâu của nhà nước) và bồi thường trâu; láng giềng biết mà không tố cáo, cũng bị phạt 80 trượng.

Mối nguy từ trộm cướp còn đến từ việc các nhà quyền thế dung túng chúng. Nên cũng đời Lý Nhân Tông, năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3 (1122), nhà vua đã xuống chiếu rằng: Những tên trộm cướp trốn tránh đã bắt được mà lại bị nhà thế gia chiếm đoạt thì nhà thế gia ấy cùng tội với người trốn. Kẻ lại đi bắt trộm cướp, bắt được rồi mà giữ lại ở nhà mình, không dẫn đến quan, thì phạt đánh 80 trượng.

Cuối thời Trần, đời Trần Thuận Tông, tháng 10 năm Quang Thái thứ 5 (1392), trộm cướp cũng nhiều, triều đình (mà thực tế là Hồ Quý Ly) sai đặt các quan cửa sông và tuần thú ở các xứ để xét bắt trộm cướp, mỗi xứ tùy vị trí xung yếu có thể đặt 3, 4 hay 5 đô (mỗi đô 30 lính). Bình luận về việc này, sử thần Phan Phu Tiên phê rằng: “Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm Chiêm Thành xâm lược, quấy rối, thì giặc cướp rất nhiều. Chúng cướp của bắt người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm được. Quý Ly nắm quyền cai trị, tìm cách lùng bắt, mới hạn chế được phần nào!”.

Khi cuộc kháng chiến chống quân Minh đã gần kết thúc, năm 1427, nghĩa quân vây chặt quân Minh trong thành Đông Đô, đất nước sắp bước vào giai đoạn thái bình, Bình Định vương Lê Lợi đã nêu 10 điều quân luật cho các tướng hiệu và quân nhân, trong đó, điều thứ 10 là: “Cấm bất hòa với mọi người, gian ác, trộm cắp”. 10 điều trên đây, kẻ nào phạm phải đều bị chém.

Hòa bình lập lại, đời Lê Thái Tông, năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), tháng 5, nhà vua ban hành lệnh chỉ cho các đội tuần kiểm coi giữ cửa ải ở các lộ, trấn, huyện phải tuần tra, canh giữ nghiêm ngặt, lùng bắt trộm cướp.

Để giữ nghiêm pháp luật, tháng 8, Vua Thái Tông sai chém tên ăn trộm Trình Đường. Bọn Chính sự viện đồng tham nghị Nguyễn Hân tâu rằng: "Tên Đường trộm cắp giữa ban ngày, nhưng theo luật không đáng xử tử, không nên giết hắn". Vua không nghe lời can gián này, mà bắt chém ngay.

Nêu cao trách nhiệm các quan

Việc phòng ngừa và ngăn chặn trộm cướp có hiệu quả hay không, là từ các quan địa phương. Vua Lê Nhân Tông, vào tháng 5 năm Diên Ninh thứ 3 (1456) khi các quan trấn, lộ, phủ, huyện chầu mừng xong từ biệt trở về, đã cho gọi vào bảo họ: "Các ngươi là quan tại nhiệm, khi trở về, phải bảo dân gắng sức làm ruộng, xử án phải cho công bằng, nếu có trộm cướp, phải hết lòng lùng bắt, không được thờ ơ, lười biếng".

Năm Hồng Đức thứ 6 (1475), Vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ: “Nếu các xứ có trộm cướp nhóm họp thì các quan phủ, châu, huyện, các xã trưởng, thôn trưởng của nơi đó đều phải trị tội theo như pháp luật”.

Đời Vua Lê Hiển Tông, năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) trong hạt Nghệ An, Thuận Hóa, bọn trộm cướp đều nổi lên, quận bên cạnh đánh dẹp không yên được. Vua ra sắc lệnh cho quan có trách nhiệm, triệt bỏ hết toán lính đi tiễu bắt, chiêu an phủ dụ cho chúng ra thú tội trở lại nghề nghiệp cũ.

Năm Cảnh Thống thứ 2, Đài đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm tâu rằng: “Bọn thần trộm thấy những người khiêng kiệu phạm các tội trộm cướp gian hung, Hình Bộ theo luật xử tội lưu mà không phát đi, thành ra chúng quen thói cũ, coi thường luật pháp, không còn kiêng sợ gì nữa. Có kẻ ngang ngược gian ác, trả thù báo oán, nhiều người lương thiện đã bị chúng làm hại. Từ nay trở đi, người khiêng kiệu lần đầu tiên phạm phải tội lưu hoặc phải thích chữ đồ làm lính ở Nam quân thì cho trở về làm người khiêng kiệu như lệnh đã định. Nếu không biết răn chừa, cố ý tái phạm thì kẻ nào đáng phải lưu đày châu, sở nào, phải bắt đi hết thảy, để cho những kẻ gian ác biết sợ hãi và không dám ngang ngược hung bạo nữa”. Lời tâu này được nhà vua y theo.

Đời Vua Lê Huyền Tông, viên trấn thủ xứ Nghệ An, kiêm trấn châu Bố Chính, là Thống suất quan Tả khuông quân dinh phó tướng Thiếu úy Đương quận công Đào Quang Nhiêu được khen ngợi vì suốt 18 năm ở trấn “mệnh lệnh được thi hành, lệnh cấm được thực hiện, trộm cướp im hơi, cõi biên thùy yên lặng”. Năm Dương Đức thứ nhất đời Vua Lê Gia Tông (1672), Đào Quang Nhiêu mất ở trấn, thọ 71 tuổi, được triều đình tặng chức thái tể, ban thụy hiệu là Thuần Cẩn Bao và phong làm phúc thần, lập đền thờ. Quang Nhiêu người xã Tuyền Cam, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

Lê Tiên Long

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/ngan-ngua-trom-cuop-tu-trong-trung-i787594/