Ngân sách nhà nước năm 2024 và dự toán 2025
Năm 2024, thu ngân sách nhà nước ước đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng, bằng 119,78% dự toán; chi ngân sách nhà nước ước đạt 1.830,8 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4% dự toán. Công tác thu, điều hành chi ngân sách nhà nước đã được thực hiện theo dự toán, đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh…

Tình hình thế giới năm 2024 tiếp tục bất ổn, phát sinh nhiều khó khăn, thách thức lớn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột quân sự leo thang ở một số quốc gia, khu vực Trung Đông; áp lực lạm phát, lãi suất cao trong thời gian dài, Mỹ và nhiều nước trì hoãn việc hạ lãi suất; khó khăn, rủi ro về nợ công; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp... tiếp tục là những thách thức đến tăng trưởng bền vững của nền kinh tế toàn cầu và có tác động lớn đến kinh tế - xã hội Việt Nam. Tính đến cuối tháng 1/2025, hầu hết các tổ chức quốc tế đều giữ nguyên hoặc nâng mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 từ 0,1 - 0,3 điểm % so với các dự báo trước đó (đạt từ 2,7 - 3,2%), tương đương với mức tăng trưởng năm 2023...
Trong năm 2024, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: tổng cầu tiêu dùng phục hồi chậm; sản xuất kinh doanh của một số ngành, lĩnh vực vẫn còn khó khăn; áp lực lạm phát gia tăng do biến động tăng của tỷ giá, điều chỉnh giá điện, tiền lương; thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của nhân dân… nên Quốc hội, Chính phủ đã ban hành một số chính sách thu theo hướng miễn, giãn, giảm thuế suất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khôi phục sản xuất kinh doanh với quy mô lớn. Do đó, đã ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước năm 2024.
Những diễn biến này cũng tác động tới tình hình kinh tế - xã hội trong nước, đến việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2024. Để kịp thời ứng phó với các tác động bất lợi này, Quốc hội, Chính phủ đã cho thực hiện hàng loạt các gói hỗ trợ tài khóa và tiền tệ như: tiếp tục giảm 2% thuế giá trị gia tăng (giảm từ 10% xuống còn 8%), giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, giảm tiền cho thuê đất… Ước tính đến hết tháng 12/2024, tổng số miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất cho doanh nghiệp và người dân năm 2024 khoảng 197,3 nghìn tỷ đồng (trong đó, số miễn, giảm khoảng 99 nghìn tỷ đồng; gia hạn khoảng 98,3 nghìn tỷ đồng).
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC BẰNG 119,78% DỰ TOÁN
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước năm 2024 ước đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng, bằng 119,78% dự toán năm 2024 (trong đó, thu ngân sách Trung ương đạt 121,41% dự toán, thu ngân sách địa phương đạt 118,13% dự toán), bằng 116,16% so với ước thực hiện năm 2023 (Hình 1). Mức thu này đã đạt tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước khoảng 17,70% GDP (ước năm 2023 đạt 17,00%, năm 2022 đạt 18,92%, năm 2021 đạt 18,75%, năm 2020 đạt 18,78%).

Hình 1 cho thấy: trong 9 năm qua, số thực hiện thu ngân sách nhà nước năm 2024 so với năm trước chỉ kém của năm 2017 và tốt hơn của 7 năm còn lại khá nhiều. Về số thực hiện so với dự toán của năm, thì năm 2024 chỉ đạt tỷ lệ thấp hơn của năm 2022 và đạt tỷ lệ cao hơn của 7 năm còn lại trong giai đoạn 2016-2024.
Nguyên nhân thu ngân sách nhà nước năm 2024 đạt mức cao hơn dự toán khá nhiều là do sự phục hồi mạnh của nền kinh tế và trụ vững trước những biến động từ thị trường thế giới. Cùng với đó, những đổi mới, cải thiện của công tác quản lý rủi ro, thanh tra thuế và ngành tài chính đẩy mạnh công tác chuyển đổi số, hiện đại hóa trong việc thu thuế từ việc triển khai sử dụng hóa đơn điện tử trên toàn quốc.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính còn đồng loạt triển khai các giải pháp chống thất thu thuế, bù đắp các khoản hụt thu khi thực hiện các chính sách hỗ trợ, cố gắng hoàn thành mức cao nhất nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2024. Trong đó, chú trọng đẩy mạnh chống thất thu ở các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, còn nhiều rủi ro, nhất là đất đai, kinh doanh bất động sản, xăng dầu, vàng, thương mại điện tử, giao dịch xuyên biên giới. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm, gian lận trong kê khai thuế, hoàn thuế; đôn đốc xử lý thu hồi nợ đọng thuế…

So với dự toán, thu ngân sách nhà nước năm 2024 đạt thành tích tốt nhất về thu từ xuất nhập khẩu (đạt 132,99% so với dự toán); tiếp đó là thu từ dầu thô (đạt 127,39%); thu nội địa (đạt 118,14%). Nếu so với số ước thực hiện năm 2023, thu ngân sách nhà nước năm 2024 đạt thành tích tốt nhất về thu từ xuất nhập khẩu (đạt 124,12% so với năm 2023), tiếp đó là thu nội địa (đạt 116,01%); thu từ dầu thô (chỉ đạt 94,56%) (Hình 2).
Khoản thu từ xuất nhập khẩu năm 2024 tăng rất mạnh so với dự toán năm 2024 và so với ước thực hiện năm 2023 chủ yếu là do thương mại toàn cầu nửa cuối năm 2024 có nhiều khởi sắc, giúp cho kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2024 đạt 786,295 tỷ USD (tăng 15,45% so với năm 2023), tác động làm tăng thu ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này.
Khoản thu từ dầu thô năm 2024 tăng khá mạnh so với dự toán năm 2024, nhưng lại giảm so với ước thực hiện năm 2023 chủ yếu là do: dự toán năm 2024 lập trên cơ sở sản lượng khai thác dầu thô trong nước là 8,3 triệu tấn, giá bán 70,0 USD/thùng; nhưng thực tế trong năm 2024, sản lượng khai thác trong nước ước đạt 8,1 triệu tấn (thấp hơn 0,2 triệu tấn so kế hoạch), giá dầu bình quân cả năm đạt khoảng 80 USD/thùng (cao hơn 10 USD/thùng so với giá dự toán, nhưng thấp hơn 2 USD/thùng so với giá bình quân năm 2023); kết quả là ước thực hiện thu từ dầu thô cả năm 2024 đạt 58,6 nghìn tỷ đồng (tăng 27,39% so với dự toán, nhưng lại giảm 5,44% so với ước thực hiện năm 2023)…
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước ước năm 2024 khá tương đồng với ước thực hiện năm 2023, nhưng có thay đổi khá nhiều so với thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2022. Đó là tỷ trọng thu từ nội địa, từ xuất nhập khẩu tăng khá rõ để bù cho việc giảm của tỷ trọng thu từ dầu thô và thu từ viện trợ
Để đáp ứng nhu cầu huy động vốn kịp thời cho NSNN (chủ yếu là trả nợ gốc vay của Chính phủ, giải ngân vốn đầu tư công…), Việt Nam còn huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) trong nước.
Trong năm 2024, Kho bạc Nhà nước đã huy động được 330.375 tỷ đồng TPCP, đạt 83% kế hoạch. Kỳ hạn phát hành bình quân là 11,12 năm (trong khi kỳ hạn bình quân của năm 2023 là 12,58 năm, 2022 là 12,67 năm, năm 2021 là 13,51 năm, 2020 là 13,93 năm, 2019 là 13,6 năm; của giai đoạn 2009-2014 là 4,2 năm); thời gian đáo hạn bình quân danh mục là 9,02 năm; lãi suất phát hành bình quân là 2,52%/năm (trong khi lãi suất bình quân của các năm 2023; 2022; 2021; 2020; 2019; 2018; 2017 và giai đoạn 2009-2014 lần lượt là: 3,21%/năm; 3,48%/năm; 2,28%/năm; 2,87%/năm; 4,58%/năm; 4,73%/năm; 5,98%/năm và 11,58%/năm), giúp giảm chi phí vay nợ cho NSNN…
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TĂNG 5,7%
Cùng với công tác thu, công tác điều hành chi NSNN năm 2024 đã được thực hiện theo dự toán, đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, đảm bảo kinh phí khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN…
Theo thông tin từ Bộ Tài chính, tổng chi NSNN năm 2024 ước đạt 1.830,8 nghìn tỷ đồng (bằng 86,4% dự toán năm và tăng 5,7% so với năm 2023). Trong đó, chi thường xuyên năm 2024 ước đạt 1.190,7 nghìn tỷ đồng (bằng 94,5% dự toán năm và tăng 12,5% so với năm 2023); chi đầu tư phát triển ước đạt 529,1 nghìn tỷ đồng (bằng 78,1% và giảm 8,7%); chi trả nợ lãi 108,3 nghìn tỷ đồng (bằng 97,0% và tăng 20,2%).
Các nhiệm vụ chi NSNN được thực hiện theo dự toán, xử lý kịp thời các nhiệm vụ đột xuất phát sinh về phòng chống dịch bệnh, khắc phục hậu quả thiên tai, đảm bảo quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN. Ngân sách các cấp đã chủ động đảm bảo nguồn thực hiện tăng lương cơ sửo từ 1,8 triệu đồng/tháng lên 2,34 triệu đồng/tháng cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN và tăng lương hưu, trợ cấp cho các đối tượng thuộc NSNN đảm bảo từ ngày 01/7/2024.
Bên cạnh đó, một số nhiệm vụ chi được tiếp tục thanh toán đến hết ngày 31/01/2025 hoặc sẽ tiếp tục được chuyển nguồn sang năm 2025 thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công.
Cụ thể, giải ngân vốn kế hoạch các năm trước kéo dài sang năm 2024, ước giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/12/2024 là 38.605,2 tỷ đồng, đạt 67,38% kế hoạch; ước giải ngân vốn kế hoạch năm 2024 là 529.632,6 tỷ đồng, đạt 70,24% kế hoạch, đạt 77,55% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2023 đạt 73,5% kế hoạch và đạt 81,87% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).
Trong đó Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội là 5.703,9 tỷ đồng (đạt 91,75% kế hoạch), chương trình mục tiêu quốc gia là 20.265,9 tỷ đồng (đạt 74,45% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).
Năm 2024, kế hoạch đầu tư vốn NSNN được Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương là 682.950,7 tỷ đồng (bao gồm vốn ngân sách trung ương là 250.647,6 tỷ đồng và vốn ngân sách địa phương là 432.303,1 tỷ đồng).
Trong đó, vốn ngân sách Trung ương bố trí cho dự án, nhiệm vụ thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia là 27.220 tỷ đồng; kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương, các địa phương giao tăng so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao là 71.130,8 tỷ đồng. Ngoài ra, kế hoạch vốn các năm trước được phép kéo dài là 57.293,9 tỷ đồng.
Với kết quả giải ngân ước đến hết tháng 12/2024, tỷ lệ giải ngân vốn ngân sách Trung ương đạt tỷ lệ cao hơn cùng kỳ năm 2023, trong khi đó, vốn ngân sách địa phương giải ngân còn thấp.
Cụ thể, tính tới cuối năm 2024, có 16/46 bộ, cơ quan trung ương và 37 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân so với tổng kế hoạch đạt trên mức bình quân chung của cả nước.
Trong đó, một số bộ, cơ quan Trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân tốt như Đài truyền hình Việt Nam (100%), Ngân hàng Chính sách xã hội (100%), Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật (98,22%), Văn phòng Trung ương Đảng (93,65%), Đài tiếng nói Việt Nam (88,34%), Ngân hàng Nhà nước (84,83%), Bộ Giao thông vận tải (83,3%), Bộ Công an (81,88%); Bắc Kạn (91,32%), Bình Định (91,19%), Nghệ An (90,59%), Vĩnh Phúc (90,54%), Hòa Bình (89,47%), Hà Nam (89,25%).
Tuy nhiên, vẫn có tới 30 bộ, cơ quan Trung ương và 26 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân thấp hơn bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, địa phương có kế hoạch vốn lớn như TP. Hồ Chí Minh (được giao 79.263,78 tỷ đồng, chiếm 11,8% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao cả nước), nhưng chỉ giải ngân được 51,08%, nên ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ giải ngân chung của cả nước…
Nhìn chung, công tác điều hành chi NSNN năm 2024 đã đảm bảo chặt chẽ, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; đã ưu tiên bố trí tăng chi đầu tư phát triển ngay từ khâu phân bổ dự toán và phân bổ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi của ngân sách trung ương, nhất là đầu tư phát triển hệ thống đường cao tốc, giao thông kết nối liên vùng…
Những hoạt động này đã góp phần tích cực, giúp kinh tế Việt Nam năm 2024 đạt được những thành tựu lớn như: hậu quả thiên tai sớm được khắc phục, nền kinh tế tăng trưởng khả quan trong bối cảnh tăng trưởng chậm của kinh tế thế giới, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo, hệ số tín nhiệm quốc gia tiếp tục được cải thiện…
Với kết quả thu, chi NSNN nêu trên, cân đối ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm bảo. Ước tính đến cuối năm 2024, các chỉ tiêu nợ đều trong giới hạn an toàn được Quốc hội phê chuẩn.
Cụ thể: dư nợ công khoảng 36,5% GDP (tỷ lệ này của năm 2023 là 36,6%, năm 2022 là 38%, năm 2021 là 43,7%); dư nợ Chính phủ khoảng 33,5% GDP (năm 2023 là 33,8%, năm 2022 là 34,7%, năm 2021 là 39,5%); nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 21,5% tổng thu NSNN (năm 2023 là 18,8%, năm 2022 là 16,3%, năm 2021 là 23,0%).
DỰ TOÁN THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2025
Trong năm 2025, dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những cơ hội, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Đặc biệt, có bốn sự kiện lớn sẽ cản trở sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu bao gồm: (i) chủ nghĩa bảo hộ và xu hướng liên kết mới trên thế giới đặt ra nhiều thách thức; (ii) xung đột Nga – Ukraine, chiến tranh và căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông (tiếp tục làm mất ổn định nền kinh tế toàn cầu, gây ra khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng ở châu Âu…); (iii) triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu còn đối mặt với nhiều nguy cơ, rủi ro (kinh tế ở Trung Quốc chưa tăng trưởng được như kỳ vọng…); (iv) các thách thức an ninh phi truyền thống, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan... diễn biến bất thường.
Năm 2025, kinh tế Việt Nam được dự báo có nhiều điểm tích cực, như: nền tảng chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, các cải cách thể chế và nỗ lực phát triển hạ tầng; việc thúc đẩy chuyển đổi số, kinh tế xanh và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh tiếp tục tạo động lực cho tăng trưởng bền vững.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, tác động của những yếu tố bất lợi bên ngoài, như: tình trạng bất ổn an ninh, chính trị tại một số quốc gia, khu vực; biến động kinh tế toàn cầu, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng; Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, có độ mở lớn, sức chống chịu và cạnh tranh còn hạn chế, năng suất lao động thấp…
Trước bối cảnh này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 8/1/2025 của về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2025. Theo đó, Nghị quyết yêu cầu chủ động thực hiện dự toán NSNN năm 2025 theo hướng:
Thứ nhất, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, NSNN; đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong thu, chi NSNN, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thu, chi NSNN; bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời; cơ cấu lại nguồn thu bảo đảm tính bền vững, mở rộng cơ sở thu và chống chuyển giá, trốn thuế, quản lý hiệu quả các nguồn thu phát sinh từ các giao dịch thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, giao dịch xuyên biên giới.
Quyết liệt triển khai chuyển đổi số, quy định bắt buộc về hóa đơn điện tử đối với tất cả các ngành, lĩnh vực, đồng thời phải thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện; đôn đốc thu hồi các khoản nợ đọng thuế, giảm tỷ lệ nợ đọng thuế; phấn đấu thu NSNN năm 2025 cao hơn khoảng 10% so với ước thực hiện năm 2024.
Triệt để tiết kiệm chi; phấn đấu tiết kiệm thêm khoảng 10% chi thường xuyên tăng thêm dự toán năm 2025 so với dự toán năm 2024; kiểm soát bội chi, các chỉ tiêu an toàn nợ công trong giới hạn an toàn, hợp lý, đồng thời nghiên cứu, xem xét tận dụng dư địa về nợ công, nợ chính phủ, bội chi để huy động thêm nguồn lực cho phát triển.
Nghiên cứu, đánh giá để đề xuất, xem xét việc kéo dài các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất... hỗ trợ tăng trưởng, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, theo dõi sát diễn biến giá các hàng hóa chiến lược trên thị trường thế giới, diễn biến tình hình quốc tế, khu vực, chủ động phân tích, dự báo, kịp thời cảnh báo các nguy cơ tác động đến mặt bằng giá trong nước, thực hiện theo thẩm quyền hoặc đề xuất, tham mưu cấp có thẩm quyền các biện pháp, giải pháp, kịch bản ứng phó phù hợp, linh hoạt, hiệu quả, bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2025 ở mức khoảng 4,5% theo Nghị quyết của Quốc hội. Thực hiện nghiêm các quy định về kê khai giá, niêm yết giá, công khai thông tin về giá...
Thứ ba, triển khai hiệu quả Nghị định về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư, đảm bảo niềm tin của nhà đầu tư, duy trì sự hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính, thị trường vốn để huy động nguồn lực cho nền kinh tế; năm 2025 phấn đấu nâng hạng thị trường chứng khoán. Triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững.
Thứ tư, phát triển mạnh thị trường trong nước; triển khai các hoạt động kết nối cung cầu và xúc tiến thương mại; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 10-12%.
Theo dõi sát tình hình thị trường, thực hiện các biện pháp bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, nhất là trong các dịp cao điểm lễ, Tết, triển khai các giải pháp kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy thương mại trong nước, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá. Có giải pháp quản lý, điều tiết sản xuất, ổn định cung cầu các mặt hàng thiết yếu tác động lớn đến kinh tế - xã hội, sản xuất trong nước và quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ năm, có giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, kịp thời hơn nữa để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm 2025, đặc biệt là các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm và các chương trình mục tiêu quốc gia; lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, tăng cường hợp tác công tư.
Tăng cường phân cấp, phân quyền nhiều hơn nữa và nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án, bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, manh mún và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư công dự án hoàn thành đúng quy định, tránh thất thoát, lãng phí.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại thu, chi NSNN, nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng NSNN; tiếp tục đổi mới cơ chế phân cấp NSNN theo hướng tăng cường tính chủ đạo của ngân sách Trung ương và nâng cao tính chủ động của ngân sách địa phương, cơ quan, đơn vị liên quan.
Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý thuế, nhất là đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế số, giao dịch xuyên biên giới; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống chuyển giá, bảo đảm thu đúng, đủ, kịp thời, mở rộng cơ sở thuế...
Cụ thể, tổng dự toán thu NSNN 2025 tăng 15,63% so với dự toán 2024 nhưng lại giảm 3,47% so với số ước thực hiện năm 2024; tương tự, dự toán 2025 về thu nội địa tăng 15,50% nhưng giảm 2,23%; thu từ dầu thô tăng 15,65% nhưng giảm 9,22%; thu từ XNK tăng 15,20% nhưng giảm 13,38%. Tương quan này cũng gần giống như khi so sánh dự toán một số khoản thu NSNN năm 2022, 2023 và 2024 so với dự toán năm đó và ước thực hiện của năm trước. Kết quả là số thực hiện thu của 3 năm này vượt dự toán khá nhiều (xem thêm Hình 1). Do vậy, thực hiện thu NSNN năm 2025 có thể sẽ vượt dự toán từ 13 – 17%.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Như đã phân tích ở trên, tình hình kinh tế - xã hội năm 2025 ở Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn, thuận lợi đan xen và sẽ là những áp lực cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ thu NSNN. Do đó, để chủ động trong điều hành hoạt động tài chính - NSNN, việc xây dựng dự toán thu NSNN năm 2025 cần chắc chắn, phù hợp với khả năng của nền kinh tế Việt Nam như trên là hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
Để tổ chức thực hiện thành công dự toán thu chi NSNN năm 2025, ngành Tài chính cần tập trung triển khai 9 giải pháp tích cực.
Một là, giữ vững nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, phát triển bền vững các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cụ thể là tăng cường năng lực dự báo đúng, kịp thời những biến động tình hình kinh tế thế giới và trong nước để đề xuất các giải pháp điều hành chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt, mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, nhịp nhàng với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm xử lý tốt các vấn đề phát sinh.
Hai là, thực hiện nghiêm pháp luật về thu, quản lý thu NSNN, tập trung thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý thu NSNN, phấn đấu hoàn thành dự toán thu được giao ở mức cao nhất, đảm bảo nguồn lực phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng NSNN gắn với các mục tiêu về tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển bền vững…
Nội dung bài viết được đăng tải trên ẩn phẩm đặc biệt Kinh tế 2024-2025: Việt Nam & Thế giới phát hành vào tháng 02/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1262

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/ngan-sach-nha-nuoc-nam-2024-va-du-toan-2025.htm