Ngát xanh rừng dừa xứ Quảng
Cuối hè, nắng xứ Quảng như rang. Gió biển từng cơn thổi tới như muốn xoa dịu cái rộc rạc nơi cây và cái thắt thẻo nơi người. Phải chăng nắng gió xứ này đã làm cho đất trời sông biển thêm mênh mang, rợn ngợp.
Và lòng người cũng thật sâu bởi sự chân chất, đôn hậu, dễ gần. "Nước sông Con, chảy về sông Cái/ Anh trai Thu Bồn, em gái Hà Nha/ Chiều nay hò hẹn đôi ta/ Xuôi về một bến, nước pha màu trời". Tôi nương theo câu hát ấy của người xứ Quảng để tìm vẻ yên bình nơi màu nước, tìm nét vừa dịu dàng, vừa dào dạt của những dáng dừa soi bóng trên sông.

Du khách thăm rừng dừa Bảy Mẫu.
Trước khi ra Cửa Đại để hòa mình với biển mẹ, không biết ba con sông Thu Bồn, Trường Giang, Cổ Cò đã chụm đầu nói gì với nhau để tạo nên một rừng dừa ngát xanh. Không nhớ ai là người đầu tiên mang những cây dừa nước ra với vùng cửa sông này. Nhưng các bậc cao niên trong vùng nói có lẽ từ rất lâu rồi, dễ đến vài trăm năm.
Đất Quảng không sinh ra dừa, chính những lưu dân từ đồng bằng châu thổ Cửu Long đã mang cây đến nơi đây. Trên dải đất hình chữ S của chúng ta, suốt chiều dài lịch sử, không biết đã có bao cuộc "gánh gồng" của người Việt dời cố thổ để đến với những vùng đất mới. Những cuộc "gánh gồng" ấy họ đã mang theo cả tên đất, tên làng, nết ăn nết ở, con giống, cây trồng. Đó là một phần hồn vía của quê hương, bản quán. Thế nên, đôi khi chỉ cần tìm hiểu "vết chân" của một giống cây nào đó ta có thể hình dung về những thời đoạn của một cộng đồng, một tộc người,...
Bao đời nay người dân ở các thôn Vạn Lăng, Thanh Nhứt, Thanh Tam Nam, Thanh Tam Đông, Cồn Nhàn... xã Cẩm Thanh (thành phố Hội An) nay là phường Hội An Đông (thành phố Đà Nẵng) đã gắn bó với rừng dừa. Rừng vốn nghèo nhưng cũng đủ cá tôm, quả dừa, lá dừa giúp bần dân qua từng bữa đói, lợp mái nhà che nắng, che mưa,... Dừa gắn bó, trở nên ơn nghĩa với người.
Những năm chiến tranh, rừng dừa trở thành "chiến lũy" của quân và dân xứ Quảng, Mĩ - ngụy thì chủ trương biến nơi này thành "tọa độ chết" với vô số bom đạn trút xuống nhằm đè bẹp ý chí chiến đấu của quân dân Cẩm Thanh. Bao phen kẻ thù dồn dân, giết bộ đội, cán bộ, chém đốt dừa nhưng dừa vẫn đâm nõn vươn lên; người vẫn bám đất, bám làng diệt Mĩ để giành lấy cuộc sống tự do, được ngẩng cao đầu như bạt ngàn dừa reo ca, kiêu hãnh ngẩng xanh giữa đất trời.
Xã Cẩm Thanh từng biết đến là địa phương có nhiều cá nhân được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất thành phố Hội An. Một trong những người con ưu tú có nhiều đóng góp cho phong trào cách mạng của Cẩm Thanh là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Võ Thị Hóa. Thời chống Mỹ ác liệt, bà Hóa tham gia hoạt động cách mạng từ năm mười ba tuổi. Từng ba lần bị địch bắt giữ, tra khảo với những ngón đòn độc ác, người nữ chiến sĩ cách mạng ấy vẫn kiên trinh, chịu đớn đau, không khai nửa lời.

Hoàng hôn trên rừng dừa Bảy Mẫu (ảnh: Nguyễn Phú).
Bó tay trước cô gái ngoan cường, kẻ thù phải trả tự do cho Võ Thị Hóa. Bà tiếp tục trở lại Cẩm Thanh với công tác binh vận. Lời ca câu hò ngọt mềm của "cô gái thép" đã góp phần cổ vũ khí thế cách mạng của quân dân ta, làm lung lạc tinh thần của kẻ thù. Sau này, có nhiều thơ ca của người dân ghi lại những năm tháng chiến đấu ngoan cường, vẻ vang của người con gái họ Võ: "Có người con gái Cẩm Thanh/ Là Võ Thị Hóa rạng danh anh hùng/ Mười ba tuổi tham gia cách mạng/ Có sợ chi bom đạn kẻ thù".
Kho tàng ca dao, dân ca gắn với những điệu hò là báu vật quý giá đời nối đời của người xứ Quảng. Rừng dừa Bảy Mẫu với vẻ đẹp trữ tình, nên thơ của nó, cùng với quá trình lao động sản xuất, chiến đấu của nhân dân, đã viết lên những lời ca lay động lòng người: "Đứng lên bằng súng bẹ dừa/ Quê ta đồng khởi Mỹ thua Ngụy hàng/ Cứng hơn sắt bền hơn gang/ Súng này hợp chất căm hờn lửa nung/ Rễ sâu bám đất anh hùng/ Bẹ dừa năm tháng bão bùng không lay/ Lạch dừa gợn ánh mây bay/ Bẹ dừa hóa súng chất đầy thuyền nan".
Câu ca trên gợi nhớ một thời kì hào hùng của quân dân vùng rừng dừa Bảy Mẫu đi đầu trong phong trào đồng khởi "diệt ấp, phá kèm", giành quyền kiểm soát hoàn toàn xã Cẩm Thanh. Và ai sinh ra ở nơi đây, vì lý do nào đó mà phải xa quê, hẳn bên lòng vẫn văng vẳng câu hò này mỗi khi chiều xuống: "Thuyền đi Cửa Đại, thuyền ghé bến Gành/ Ai về sông nước Cẩm Thanh/ Cho tôi gởi trọn tấm lòng yêu thương/ Hội An mảnh đất quê hương/ Hiên ngang đứng đó nắng sương chẳng sờn".
Chúng tôi vào rừng dừa khi chiều đã lưng lửng. Gió từ phía Cửa Đại thổi tới, mang cái phóng khoáng, vị mặn mòi của biển. Dăm cánh chim nghiêng chao lượn, thi thoảng rót xuống vài tiếng kêu tao tác. Nhịp nhàng chèo thuyền, rủ rỉ chuyện trò với khách, gương mặt trái lê nâu của chị Võ Thị Hồng ngời lên nét đẹp của người phụ nữ mạnh khỏe, chịu thương chịu khó vùng sông nước. Hồng bảo chị chỉ là người chèo thuê cho chủ thuyền. Chị bằng lòng, có phần yêu thích vì tìm thấy những niềm vui với công việc của mình.
Chèo thuyền cho chị một khoản thu nhập ổn định để nuôi đàn con nhỏ, chị lại được tiếp xúc với nhiều người trên mọi miền đất nước, cả du khách nước ngoài. Mến người, mến khách, hay chuyện nên cái giọng Quảng nhiều âm "lạ" của chị cứ ríu ran, ríu rô như chim hót. Mỗi vị khách đến đây mang tới một câu chuyện của họ, chị thấy tầm nhìn, tâm hồn mình thêm rộng mở. Chị cho biết, hiện nay ước tính diện tích dừa đã phủ gần 200 mẫu, nhưng mọi người vẫn yêu, chung thủy với cái tên "Bảy Mẫu".
Thuyền bơi vào giữa rừng, một vùng nước mênh mang trải ra, tiếng hát, tiếng hò Quảng hòa vào gió, lan trên những con sóng lăn tăn. Trên mấy chiếc thuyền, một vài ban nhạc biểu diễn những bài hát Âu - Mỹ nổi tiếng, đậm chất đồng quê, vô cùng náo nhiệt. Sôi động nhất là nơi các nghệ sĩ sông nước biểu diễn tiết mục xoay thúng, múa chèo với tốc độ chóng mặt. Tiếng hò hét cổ vũ vang động rừng chiều. Động tác khỏe khoắn, dẻo dai, điêu luyện của những chàng trai da nâu vùng sông nước làm tôi liên tưởng đến những vũ công với điệu nhảy samba cuồng say trên bãi biển Brazil.
Trên đoạn đường trở về điểm khởi hành, những người bạn chèo thuyền của chị Hồng góp thêm câu chuyện về đất, về người với chúng tôi. Dân trong vùng vốn nghèo, lành hiền như những cây dừa lặng thầm, kiên gan lội nước, cắm bùn đất mà thành cụm, thành rừng. Có người vì cái nghèo bỏ xứ ra đi, nhưng rồi một ngày kia lại dắt díu bầu đoàn thê tử trở về. Hỏi sao thì bảo rằng nhớ cái nắng gió, nhớ những bóng dừa, nhớ từng đàn cá tôm, câu chào hỏi, tiếng hò,... của xứ sở này.
Cái nghèo là "căn tính", "đặc sản" của nhiều đời người, nay thì đã khác rồi. Rừng dừa bát ngát này đã trở thành tài sản quý giá cho xứ Quảng. Rừng dừa là nàng Lọ Lem được "cây đũa thần" của ngành du lịch gõ vào, sau một thời gian ngắn đã biến thành nàng công chúa với chiếc váy xanh lộng lẫy. Nhiều chủ đầu tư về đây làm du lịch sinh thái, người dân trong vùng cũng hồ hởi hưởng ứng vào ngành công nghiệp "đẻ trứng vàng" để cho cuộc sống thay da đổi thịt.
Các ngành nghề thủ công nghiệp, nông nghiệp được phục hồi trở lại như: làm nhà tranh tre dừa, câu cá, câu mực khơi, nuôi tôm, nuôi cá... Còn rất nhiều những trầm tích văn hóa, nét đẹp làng quê đang được nghiên cứu đầu tư để một ngày không xa được hiển lộ, phát sáng, hòa vào mô hình du lịch sinh thái kết hợp du lịch cộng đồng.
Hoàng hôn buông xuống, những dải mây tím biếc một góc trời. Tôi lên cầu Cửa Đại, cây cầu dài nhất Quảng Nam trước khi về sum họp với Đà Nẵng. Vài ba ngư phủ kéo vó, giăng lưới trên sông, chút ánh sáng cuối ngày dệt lên mắt lưới những đốm lấp lánh, sóng nước rợp rờn. Nền trời in bóng nước, lộng lẫy như một bức khảm xà cừ, bừng lên trong một khoảnh khắc, rồi nhường cho bóng tối dâng đầy. Xa xa phía Cửa Đại, đèn từ các nhà thuyền thắp lên, có lẽ buổi đi câu của ngư dân sắp bắt đầu.
Ngắm những đốm sáng nối tiếp nhau, tôi tưởng tượng đến những nghi lễ thành tâm, thiêng liêng trước biển cả. Lòng nguyện cầu bình yên đến những kiếp người ngoài xa kia và cả xứ sở này.
Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/ngat-xanh-rung-dua-xu-quang-i781815/