Nghị quyết 71 thúc đẩy tăng chất lượng đào tạo các ngành khoa học sức khỏe
Trước tình trạng thiếu hụt nhân lực y tế, Nghị quyết 71 ra đời đã tạo thêm nhiều giải pháp để đào tạo khối ngành đại học đào tạo sức khỏe.

Khối ngành đại học đào tạo sức khỏe qua Nghị quyết 71 được thúc đẩy chất lượng đào tạo trên nhiều lĩnh vực.
Nhu cầu rất lớn về nhân lực y tế chất lượng cao
GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy, Hiệu trưởng Trường Đại học Y – Dược (Đại học Huế) cho biết, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã khẳng định quan điểm chỉ đạo “Giáo dục, đào tạo phải bảo đảm "học đi đôi với hành", "lý thuyết gắn liền với thực tiễn", "nhà trường gắn liền với xã hội" và “Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Tạo đột phá về nguồn lực, động lực và không gian mới cho phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng”.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã tái khẳng định quan điểm chỉ đạo: “Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng, cân đối, đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và sự hài lòng của người dân; có chính sách ưu đãi, đãi ngộ đặc biệt trong suốt quá trình từ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, phát huy năng lực, thế mạnh của đội ngũ cán bộ y tế”.
Với những cơ sở trên, việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế là nhiệm vụ hết sức cấp bách, có ý nghĩa chính trị, khoa học và thực tiễn cao đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, góp phần thực hiện thành công chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Y tế vào năm 2024, hiện nay cả nước có 71 cơ sở giáo dục (CSGD) đào tạo nhân lực y tế trình độ đại học và 8 viện có đào tạo trình độ tiến sĩ. Trong số 71 CSGD đại học này có 21 CSGD đại học chuyên lĩnh vực khoa học sức khỏe và 50 CSGD đào tạo đa lĩnh vực trong đó có khoa học sức khỏe. Bên cạnh đó, cả nước hiện có 102 trường cao đẳng và 37 trường trung cấp đào tạo nhân lực y tế trình độ cao đẳng và trung cấp.
Các báo cáo thống kê đều cho thấy có sự thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực y tế cả về số lượng, chất lượng và phân bố không đồng đều. Về bác sĩ, Việt Nam đạt tỷ lệ 14 bác sĩ/10.000 dân, trong khi mục tiêu đặt ra đến năm 2025 là đạt 15 bác sĩ và đạt 35 bác sĩ/10.000 dân vào năm 2050. Dự báo trong giai đoạn 2021-2030, cả nước còn thiếu khoảng 173.400 bác sĩ.

Đào tạo bác sĩ thực hành tại Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế.
Về nhân lực y tế dự phòng, cả nước thiếu khoảng 23.800 người, trong đó bác sĩ y học dự phòng thiếu khoảng 8.075 người và 3.993 cử nhân y tế công cộng. Tổng số cán bộ làm công tác y tế dự phòng từ trung ương đến tuyến huyện chỉ đáp ứng được khoảng 42% nhu cầu nhân lực cần có.
Thống kê của Hội Điều dưỡng Việt Nam cho thấy, tính đến năm 2024, tỷ lệ điều dưỡng ở nước ta chỉ đạt 18 người/10.000 dân, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu đặt ra vào năm 2025 là 25 điều dưỡng/10.000 dân. Chỉ số này thấp hơn mức trung bình toàn cầu và chỉ bằng khoảng 1/8 so với các quốc gia phát triển. Dự báo, trong giai đoạn 2021 - 2030, Việt Nam cần thêm khoảng 313.900 điều dưỡng.
Báo cáo của Ủy ban độc lập Lancet (2010) về giáo dục y học thế kỷ 21 đã khuyến cáo, cần phát triển một hệ thống giáo dục toàn diện để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế, trong đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự phối hợp chặt chẽ giữa hệ thống y tế và hệ thống giáo dục. Với các khuyến cáo đó, từ những năm đầu của thập niên 2010, Bộ Y tế đã chủ trì cùng với các chuyên gia giáo dục y học trong và ngoài nước đã đánh giá và đề xuất một số giải pháp lớn để đổi mới toàn diện giáo dục y khoa ở Việt Nam gồm: 1) Xác định lại chuẩn năng lực của các loại hình nhân lực y tế, 2) Tăng cường hợp tác giữa trường và bệnh viện trong đào tạo năng lực lâm sàng và 3) Phát triển hệ thống quốc gia đánh giá năng lực hành nghề.
Từ năm 2015, Dự án Giáo dục và Đào tạo nhân lực Y tế phục vụ cải cách hệ thống Y tế (Dự án HPET) do Ngân hàng Thế giới tài trợ đã triển khai đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo Y khoa và Răng Hàm Mặt theo hướng tích hợp dựa trên năng lực tại 5 trường đại học y - dược lớn của Việt Nam gồm Trường Đại học Y – Dược TPHCM, Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế, Trường Đại học Y – Dược, Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Y – Dược Hải Phòng, Trường Đại học Y – Dược Thái Bình và một số trường cao đẳng và đơn vị y tế trong toàn quốc. Song song với Dự án HEPT, Dự án IMPACT-MED do Quỹ USAID, Hoa Kỳ tài trợ cũng đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật của Đại học Y khoa Harvard, Hoa Kỳ cho việc đổi mới chương trình đào tạo Y khoa và chương trình đào tạo Bác sĩ nội trú.
Nghị quyết 71 và các chương trình hành động nâng cao đào tạo ngành khoa học sức khỏe
Theo GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy, từ Nghị quyết 71, nhằm tăng chất lượng đào tạo các ngành khoa học sức khỏe, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù và cơ chế đặt hàng trong đào tạo nhân lực y tế, đặc biệt là nguồn nhân lực y tế phục vụ y tế cơ sở, y tế dự phòng, y tế công cộng, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
“Cùng với đó là đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo hướng tích hợp dựa trên năng lực. Giáo dục tích hợp dựa trên năng lực là xu hướng mới và hiện đại của giáo dục y khoa thế giới, đặt trọng tâm vào xây dựng năng lực thực hành nghề nghiệp cốt lõi cho người học.

Đổi mới thực hành nghề nghiệp cho khối ngành đại học đào tạo sức khỏe.
Song song, cần đổi mới mạnh mẽ các phương pháp dạy học tiên tiến lấy người học làm trung tâm như lớp học đảo chiều, tích hợp, dựa trên vấn đề, cộng tác, học mọi lúc mọi nơi, mô phỏng, môi trường ảo, giáo dục liên ngành... Để đánh giá đúng người học, cần đổi mới mạnh mẽ các phương pháp lượng giá dựa trên năng lực như trắc nghiệm có cấu trúc, thi trên máy tính, “hồ sơ học bạ” điện tử, đánh giá lâm sàng nhanh, lượng giá theo cấu trúc khách quan…
Đặc biệt, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tăng cường công tác đào tạo về y đức, ý thức trách nhiệm, pháp luật trong hành nghề y dược, quy tắc ứng xử, và kỹ năng giao tiếp" - GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy nhận định.

GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy, Hiệu trưởng Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế. (Ảnh: NVCC)
Một điểm cần lưu ý, đó là phải chú trọng phát triển giảng viên qua bồi dưỡng và đào tạo liên tục cho đội ngũ này. Cụ thể là đào tạo nâng cao năng lực về giáo dục dựa trên năng lực, xây dựng chương trình, phương pháp giảng dạy; lượng giá dựa trên năng lực và cải tiến chất lượng liên tục.
Cũng theo Hiệu trưởng Trường Đại học Y – Dược cần có cơ chế để tăng cường phối hợp giữa CSGD đại học với các CSGD nghề nghiệp nhằm tăng cường tính liên thông trong chuẩn đầu ra, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời cho người học và nhu cầu nhân lực y tế của xã hội.
Cuối cùng, cần có cơ chế và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các cơ sở thực hành của các cơ sở đào tạo theo nguyên lý Trường – Viện đáp ứng yêu cầu đào tạo thực hành. Tăng cường đầu tư mở rộng không gian phát triển cho các cơ sở giáo dục khối ngành sức khỏe đáp ứng chuẩn chất lượng CSGD đại học theo Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT; và tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị để phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhân lực y tế trọng điểm.