Ngoại giao Việt Nam - từ Cách mạng Tháng Tám đến kỷ nguyên phát triển giàu mạnh của dân tộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là dấu mốc vĩ đại mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc mà còn đặt nền móng cho nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền ngoại giao Việt Nam đã hình thành với bản sắc riêng: Độc lập, tự chủ, 'dĩ bất biến ứng vạn biến', vì lợi ích quốc gia-dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Trải qua 80 năm, nền ngoại giao ấy đã đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, ngoại giao Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống quý báu, tiên phong đi đầu trong giữ vững hòa bình, thu hút các nguồn lực quốc tế cho công cuộc phát triển đất nước.
Nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh
Ngoại giao Việt Nam 80 năm qua là nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, nền ngoại giao do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp tiến hành nhiều hoạt động lớn trong suốt hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngoại giao là phương cách hòa bình quan trọng nhất để thực hiện các mục tiêu đối ngoại. Chủ thể chính của ngoại giao là các nhà nước-quốc gia có chủ quyền. Không có độc lập thì không có chủ quyền và cũng không có ngoại giao. Theo đó, không có Cách mạng Tháng Tám thì cũng không có nước Việt Nam độc lập và cũng không có nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cùng với tuyên bố đó, nền ngoại giao của Nhà nước mới ra đời, mang sứ mệnh khẳng định nền độc lập, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến toàn quốc kháng chiến tháng 12-1946, đất nước ta đứng trước nguy cơ “ngàn cân treo sợi tóc”. Bác Hồ với cương vị Chủ tịch nước và là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã thực hiện những quyết sách chiến lược: Đầu tiên là “hòa với Tưởng để kháng Pháp”, kiềm chế quân Tưởng, phá tan âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, tranh thủ thời gian để kháng Pháp ở miền Nam; tiếp đó là “hòa với Pháp để đuổi Tưởng”, ký với Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 để đuổi 20 vạn quân Tưởng và Tạm ước 14-9-1946 để kéo dài thời gian chuẩn bị kháng chiến.

Các đại biểu Việt Nam và Bulgaria tham dự chương trình giao lưu hữu nghị nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Bulgaria. Ảnh: THƯ NGỌC
Cùng với việc tạo nền tảng quan trọng nhất của ngoại giao là độc lập, chủ quyền, Cách mạng Tháng Tám và các hoạt động ngoại giao sau Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên cơ sở của một nền ngoại giao mới, mang đậm tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Ngoại giao phục vụ sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước
Ngoại giao trong các cuộc kháng chiến: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngoại giao Việt Nam trở thành một mặt trận chiến lược, song hành với mặt trận quân sự và chính trị. Ngoại giao đã xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn, tranh thủ được sự ủng hộ to lớn, nhất là về vật chất từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Ngoại giao đã đóng góp tích cực vào hình thành mặt trận nhân dân thế giới chống xâm lược, thức tỉnh hàng trăm triệu người, bao gồm cả nhân dân tiến bộ Pháp, Mỹ, “đem chiến tranh vào trong lòng” Pháp, Mỹ. Ngoại giao cũng tạo thế cho mặt trận chính trị, quân sự, phát huy cao độ các thắng lợi trên chiến trường, thể hiện trong các văn bản pháp lý quốc tế. Những thắng lợi ngoại giao quan trọng như Hiệp định Geneva năm 1954 và Hiệp định Paris năm 1973 là những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Có thể nói, không có Hiệp định Geneva năm 1954 thì không có Hiệp định Paris năm 1973, không có Hiệp định Paris thì cũng không có Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam với các em nhỏ Nam Sudan. Ảnh: HUY CƯỜNG
Ngoại giao trong thời kỳ hòa bình và đổi mới: Sau thống nhất, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng bao vây cấm vận, chiến tranh biên giới và khủng hoảng kinh tế. Trong hoàn cảnh ấy, ngoại giao tiếp tục đóng vai trò then chốt trong việc phá thế cô lập, từng bước bình thường hóa quan hệ với các nước lớn. Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc năm 1977, mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào không liên kết.
Sau khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986, đối ngoại Việt Nam có bước chuyển mạnh mẽ từ tư duy “đối đầu” sang “hòa bình-hợp tác-phát triển”. Chính sách đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa” cùng phương châm “thêm bạn, bớt thù”, quan điểm “đối tác, đối tượng” đã tạo nền tảng cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới. Những sự kiện nổi bật như bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), với Hoa Kỳ (năm 1995), gia nhập ASEAN (năm 1995), APEC (năm 1998) và WTO (năm 2007) là những dấu mốc quan trọng trong đối ngoại của Việt Nam và cũng thể hiện sự trưởng thành vượt bậc của nền ngoại giao Việt Nam.
Về quốc phòng, an ninh, ngoại giao đóng góp tích cực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Về phát triển kinh tế, ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút FDI, công nghệ tiên tiến phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoại giao cũng đóng góp tích cực vào việc đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng trong khu vực và thế giới.
Ngoại giao nâng tầm vị thế quốc gia: Bên cạnh phục vụ đắc lực các mục tiêu bảo vệ an ninh Tổ quốc và phát triển đất nước, ngoại giao Việt Nam không ngừng góp phần nâng tầm vị thế quốc gia. Vị thế là thứ bậc trong bản đồ khu vực và quốc tế, là mức độ tôn trọng, ủng hộ, hợp tác của các nước dành cho mình và cũng là mức độ ảnh hưởng trong các vấn đề chung của khu vực và quốc tế. Ngoại giao Việt Nam không chỉ dừng ở mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia, thu hút các nguồn lực cho phát triển, đưa đất nước hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới mà còn hướng tới đóng góp tích cực vào việc định hình cấu trúc khu vực và toàn cầu.
Ngoại giao đa phương của Việt Nam ngày càng mang tính chủ động, trách nhiệm và bản sắc rõ nét. Việt Nam trở thành cầu nối, là đối tác đáng tin cậy và là thành viên tích cực trong các tổ chức quốc tế. Đây là giai đoạn nền ngoại giao chuyển từ “tham gia” sang “đề xuất”, từ “hội nhập” sang “kiến tạo”.
Ngoại giao trong kỷ nguyên phát triển giàu mạnh
Trong kỷ nguyên phát triển giàu mạnh của dân tộc, mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.
Trong quá trình thực hiện các mục tiêu đó, sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng gia tăng. Các nguồn lực, công cụ có thể sử dụng cho các mục tiêu đối ngoại cũng được tăng cường. Nền ngoại giao toàn diện, hiện đại sẽ ngày càng được phát huy. Vì vậy, trong đối ngoại cần triển khai các nhiệm vụ trọng tâm phấn đấu đạt được các mục tiêu cụ thể:
Đóng góp hiệu quả hơn vào mục tiêu phát triển của đất nước: Để đạt được mục tiêu năm 2030, 2045, về tăng trưởng, nước ta buộc phải đạt tốc độ tăng GDP trung bình, ít nhất là 8%/năm liên tục trong 20 năm. Và để đạt được mục tiêu đó, phải tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, trước hết là công nghệ cao, thị trường xuất khẩu và vốn chất lượng cao. Theo đó, cần phải tạo dựng và củng cố một mạng lưới bạn bè, đối tác rộng lớn, bền vững, nhất là các đối tác có tiềm năng về công nghệ và thị trường, có lợi ích trùng hợp cơ bản và lâu dài trong quá trình Việt Nam vươn lên thành nước phát triển. Tiếp cận phát triển theo mô hình sản xuất thì đối ngoại phải đóng góp vào việc bảo đảm cho các nguồn đầu vào, nguồn đầu ra; thị trường luôn ổn định, không bị đứt gãy, bền vững trước những tác động từ môi trường bên ngoài. Đồng thời, phải đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi ở trong nước, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, để nâng cao mức độ và chất lượng tăng trưởng.

Đại diện Phái bộ Liên hợp quốc tại Nam Sudan gắn Huy chương Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tặng nữ quân nhân thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam. Ảnh: HUY CƯỜNG
Đóng góp hiệu quả hơn vào mục tiêu bảo vệ Tổ quốc: Trong tình hình mới, bảo vệ Tổ quốc theo nghĩa hẹp là phải giữ cho được môi trường hòa bình: Không có chiến tranh, không có xung đột đến mức tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế... Cao hơn nữa là phải tạo dựng và củng cố được cơ sở vững chắc, đủ sức để ngăn ngừa, hóa giải các thách thức, nguy cơ; nếu xảy ra xung đột thì đủ sức biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự. Hòa bình, an ninh, ổn định luôn là điều kiện tiên quyết của phát triển.
Nâng cao và củng cố vị thế quốc tế: Đất nước càng phát triển thì vị thế quốc tế càng quan trọng. Vị thế cao sẽ tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các đối tác. Vị thế cao cũng là điều kiện quan trọng để tiếp cận tới các nguồn công nghệ, nguồn vốn chất lượng cao với giá phù hợp. Để gia tăng vị thế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đối ngoại cần có cách tiếp cận mới trong việc thực hiện định hướng “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, chủ động, tích cực, có trách nhiệm hơn trong các công việc chung của khu vực và quốc tế, sẵn sàng đóng góp nguồn lực, kể cả nhân lực và tài lực cho các công việc này. Trong thúc đẩy các mục tiêu đối ngoại và xử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, đối ngoại cũng cần phải sẵn sàng dấn thân bảo vệ các nguyên tắc được đông đảo các nước trong cộng đồng quốc tế thừa nhận và tôn trọng.
Có thể khẳng định từ nền móng lịch sử của Cách mạng Tháng Tám, nền ngoại giao cách mạng Việt Nam đã hình thành và trưởng thành trong lửa đạn chiến tranh, thử thách cấm vận và hành trình hội nhập. Ngoại giao luôn đồng hành cùng dân tộc trên mọi bước đường phát triển, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, đồng thời mở ra những cơ hội mới cho đất nước trong thế giới toàn cầu hóa. Trong kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, ngoại giao tiếp tục giữ vai trò tiên phong-một công cụ chiến lược sắc bén, linh hoạt và nhân văn đưa Việt Nam tiến nhanh hơn trên con đường trở thành quốc gia phát triển, có vị thế xứng đáng trong khu vực và trên thế giới. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ngoại giao là một mặt trận và trên mặt trận ấy, mỗi cán bộ, mỗi hành động đều phải vì dân, vì nước, vì chính nghĩa”.