Người cha

Viễn ngồi trên bờ biển nhìn ra xa xăm, ngọn hải đăng lấp lóa trước mắt. Sóng dịu êm vỗ nhẹ bờ cát, xa xa, những con thuyền ra khơi tiếp tục bám biển, nhỏ dần, nhỏ dần trước mắt anh. Cảm giác như biển cả bao la, rộng lớn này sẽ nuốt chửng những con thuyền bé nhỏ kia chỉ sau một cơn bão. Lòng đầy lo âu, ngày thứ bảy ở vùng này, anh không thấy cha trở về.

Dưới bãi, tiếng í ới gọi nhau không ngớt. Tiếng trả giá cho phiên chợ hải sản sáng. Mặt trời ngấp nghé đằng Đông. Anh nhắm mắt suy nghĩ về viễn cảnh cha đang vật lộn với từng con sóng để chiến đấu mong ngày trở về. Nỗi xa xót cứ dâng đầy lồng ngực. Chẳng phải cha đã quá già để có thể chiến đấu với những bão tố ngoài kia. Một mình cha và đôi chân không nguyên vẹn nữa. Người đàn ông cứng rắn trong Viễn không thôi hết cồn cào. Nước mắt anh lặng lẽ trước bình minh.

Lần thứ n anh cãi nhau với cha, về việc cha sẽ ở lại vùng quê hay lên thành phố ở cùng anh em Viễn. Nếu cha vui vẻ xách ba lô lên thì có lẽ giờ này anh không còn ngồi đây để đếm từng nhịp đập của tim mình. Cha bảo:

- Cha lớn tuổi rồi, đi hay ở không còn quan trọng. Cha chỉ muốn ở đây, lâu lâu theo thuyền đi đánh cá cùng anh em. Chỉ là đi cho vui để khỏa lấp nỗi nhớ biển mà thôi.

Viễn không thể hiểu cảm giác của cha. Anh năn nỉ, ỉ ôi, vẽ khung cảnh vui tươi phố thị để cha theo cùng. Nhưng đáp lại tấm lòng của Viễn và em gái, cha lặng lẽ rời nhà đi khi trời hẵng còn mịt mờ. Lúc anh tỉnh dậy, một tô cháo trai úp sẵn trên bàn, thơm phức và một mảnh giấy trắng vuông vức chỉ vỏn vẹn mấy câu:

- Cha đi rồi cha lại về, con cứ trở lại thành phố và lo công việc, vợ con, lo cho em gái, nó cũng sắp tới tuổi lập gia đình rồi. Anh em nhớ bao bọc lẫn nhau.

Viễn đọc xong cũng chẳng biết làm gì, cun cút mang ba lô về lại thành phố.

*

Anh và cô em gái cùng cha đến vùng biển này đã được mười lăm năm. Khi mẹ của anh không may chết đuối sau một đêm bà đi bắt cua ngoài đồng. Đêm đó, mẹ không về nhà, cha con Viễn hoảng hốt kéo nhau đi tìm. Anh nhớ mình đã chạy khắp cánh đồng, kêu khản cả giọng nhưng không thể nghe tiếng mẹ. Cha rũ rượi, còn cô em gái thì hoảng loạn.

Ba ngày sau, khi anh em làng xóm xúm lại, loa xóm râm ran thông báo về sự mất tích của mẹ, người ta tìm thấy mẹ dưới ống cống dẫn nước, thân hình không còn nguyên vẹn nữa. Người ta đồn đoán xì xầm, bảo mẹ bị ma bắt. Ai bảo bà khuya lắc khuya lơ không chịu về còn ráng mò thêm cua, thêm ốc. Nhưng mấy ai biết được, mẹ bị thiếu máu, chắc có lẽ khi bà ra bờ sông rửa cua thì gặp lúc xây xẩm mặt mày vì cúi quá lâu. Bà lại không biết bơi nên mới xảy ra sự việc đau lòng đến thế. Hồi mẹ mất, Viễn tròn mười lăm tuổi.

Viễn sợ nước, sợ bước ra con sông trước nhà kể từ ngày đó. Mỗi buổi đi học về, Viễn lặng lẽ ngồi dưới gốc bưởi trong vườn, lấy mấy bông bưởi rụng vân vê cho tới khi cả bàn chân tê cứng mới chịu nhăn nhó đứng dậy bước vào nhà. Cha ngồi mép cửa rít thuốc lào. Còn cô em gái nằm bất động. Ba cha con đã trải qua thời gian khủng hoảng đó bằng việc rời khỏi xóm. Viễn không nghĩ cha sẽ đưa hai anh em về một vùng sông nước nữa. Khi đặt chiếc ba lô cũ xuống nền đất lạnh của một ngôi nhà, Viễn đã nghe tiếng sóng ì ầm sau lưng. Như một người phản xạ tự nhiên, Viễn gào lên đau đớn:

- Cha làm sao vậy, sao cha lại đưa tụi con đến đây?

Giọng cha nhẹ nhàng, nhưng đầy chua xót:

- Cha con mình biết đi đâu bây giờ hả con?

Rồi cha chống đôi nạng gỗ, tập tễnh bước về phía biển. Cô em gái chạy theo, gạt nước mắt nhìn cha.

*

Mọi thứ bắt đầu một cách khó khăn. Sáng đi học, chiều Viễn cùng em đi bắt ốc, nhập thêm cho mấy hàng hải sản trong chợ. Cha xin vào làm ở một xưởng đóng thuyền, bởi đi khắp vùng biển này, chẳng ai nhận một người tật nguyền như cha. Người ta sợ chỉ với một chân còn lại, cha sẽ không đứng vững khi sóng biển ập đến, nói chi việc quăng lưới, quăng chài. Viễn nằng nặc đòi cha cho nghỉ học để đi biển. Nhưng cha đã gạt phăng đi, bảo rằng nếu có đi ăn xin đi chăng nữa cha cũng không cho đứa nào bỏ học hết.

Thương cha, ngoài những buổi học ở trường, anh em Viễn đều tranh thủ xuống biển cào ốc, tìm những thứ có thể bán được để kiếm tiền nộp học phí. Có lẽ ám ảnh về cái chết của mẹ nên anh em Viễn chẳng bao giờ dám ra xa, chỉ quanh quẩn gần bờ rồi về. Bữa cơm của ba cha con thường chỉ có tép biển nấu canh, một vài cọng rau xanh và một chén nước mắm đầy. Viễn mon men xin đi biển với các chú gần nhà. Trốn cha sau một buổi tình cờ thấy ông vật lộn bên những tấm ván đóng thuyền, thân hình nhễ nhại mồ hôi, đằng sau là những lời nhiếc móc không thương tiếc của bà chủ, Viễn đứng chết trân nhìn cha cho tới khi ông quay lại. Một thằng nhóc mười lăm tuổi khi đó máu nóng dồn lên mặt nhưng khi cha ra hiệu im lặng, Viễn chỉ biết câm nín lầm lũi trở về. Thương cha, gánh nặng gà trống nuôi con đè lên đôi vai của cha.

*

Một buổi sáng, Viễn chạy qua bên nhà chú Thịnh, nằng nặc xin đi biển với chú. Chú Thịnh nhìn nó đầy ái ngại nhưng cuối cùng cũng gật đầu cho Viễn đi theo mấy ngày đánh bắt gần bờ. Ngày đầu tiên lên thuyền, Viễn say sóng. Bao nhiêu mật xanh mật vàng, Viễn nôn hết xuống biển. Khi đang lựng khựng bước vào trong thuyền thì bỗng đâu cha lừ thừ đi ra, hỏi:

- Mệt lắm không con?

Viễn ngạc nhiên tột độ, không biết tự lúc nào cha đã nhìn thấy cảnh Viễn như một cọng bún, lê lết vì say sóng. Từ ngày đó trở về, dù cha im lặng nhưng Viễn biết giữa việc chăm chỉ học hành và việc đi biển thì Viễn phải chọn tiếp tục con đường học vấn. Cha bắt đầu công cuộc chinh phục biển cả với chiếc chân còn lại. Thường là những đợt câu mực, cha giúp chú Thịnh bắt được khá nhiều. Chính bởi vậy, cha dần gắn bó với con thuyền của nhà chú Thịnh. Trong những năm tháng túng quẫn đó, chú ấy là người dang rộng vòng tay đón nhận cha con nhà Viễn, giúp đỡ nhiệt tình, chân thành như chính tấm lòng của con người vùng biển. Xóm của những người dân biển trở nên gần gũi, thân thương dần, kéo ba cha con Viễn ra khỏi mặc cảm, tự ti bằng những sẻ chia nho nhỏ. Khi là tô canh hến của cô Tư, mớ cá nhỏ tươi rói của dì Út hay những ngày anh em Viễn đi ngủ nhờ nhà thằng Vũ vì cha đi biển lâu ngày.

Đối với anh em Viễn, vùng biển này là quê hương thứ hai cưu mang cuộc đời Viễn lúc cả ba cha con vất vưởng tới đây tìm nơi trú ngụ. Cũng từ ngày đó, ba cha con chưa lần nào trở về quê nhà. Duy chỉ có một lần giỗ hết (2 năm sau ngày mất) của mẹ, cha lầm lũi trở về một mình. Sau đó, ông cũng chẳng bao giờ nhắc về chuyện trở lại quê. Anh em Viễn lớn lên, phương tiện điện thoại phổ biến nên gọi về cho bên nội, bên ngoại nhiều hơn. Có vài lần, dì Hân - em gái của mẹ, nhắc chuyện trở về quê nhưng bận đó cha nghe được, nổi sùng lên với Viễn. Vậy là thôi, Viễn cũng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Nhà cửa, đất đai ở quê cha giao lại hết cho chú, dặn chú cai quản, chăm lo ông bà nội, mồ mả hương khói ở quê.

*

Vài lần ngồi dưới hàng phi lao rì rào gió, cha vẫn kể đôi ba câu chuyện và về nỗi ân hận khi để mẹ ra đi một cách oan uổng. Cha bảo thời ấy chiến tranh, mất mát, đau thương nhiều, cha chứng kiến đồng đội nằm gai nếm mật với nhau ra đi. Mỗi người để lại một nỗi đau riêng. Cha trở về với đôi nạng gỗ. Cuộc sống thời bình với người vợ hiền thảo, bao năm đằng đẵng đợi chồng. Khi cha trở về, Viễn tròn ba tuổi, khóc ré lên khi thấy một cục thịt tròn tròn ngay ở chân trái của cha, nhăn nheo. Mẹ dùng miếng vải xô quấn lại và nhét nó vào chiếc chân giả. Một tuần liền, Viễn không dám tới gần cha. Cứ mỗi lần thấy cha thay tấm vải là Viễn chui tọt xuống giường trốn hoặc chạy ra gốc bưởi ngồi khóc ngon lành. Bữa đó cha nhìn mẹ, hai người tự nhiên trào nước mắt. Cứ ngỡ họ sẽ được đi cùng nhau thêm một đoạn đường phía trước, nhưng cũng chỉ mười mấy năm, mười mấy năm trọn vẹn nghĩa tình, em gái ra đời, mẹ ra đi không một lời từ biệt.

Cha không bao giờ nhắc đến chuyện đi thêm bước nữa. Vì có lẽ trong thâm tâm cha chỉ có người phụ nữ duy nhất là mẹ. Mặc cho bao nhiêu vất vả của cuộc sống đè nén lên đôi vai, ông vẫn không bao giờ chùn bước. Viễn nhớ mỗi lần đón cha ở biển trở về, hình ảnh in đậm trong tâm trí anh là dáng cha đứng sừng sững trước mui tàu, cái ngực lực lưỡng nhô ra như thách thức với cuộc đời, làn da nâu rắn rỏi. Chiếc nạng gỗ để ép sát góc boong tàu, nụ cười hồn hậu và giòn tan khi anh em Viễn chạy ào ra ôm chặt cha. Viễn thích nhất cảm giác vùi đầu vào bộ ngực ấy, hít hà mùi mặn mòi của biển. Cha như một tấm lá chắn, sẵn sàng đứng ra che chở hết sóng gió cho anh em Viễn.

Ngày anh nhận tấm bằng tốt nghiệp đại học loại giỏi, cha bận bộ quân phục đứng ở xa nhìn. Trong lúc anh vui với bạn bè, cha với cô em gái ngồi trò chuyện cùng nhau, về khoảng thời gian ba cha con cùng chiến đấu để vượt qua. Niềm vui hiện lên trên đôi mắt của người lính già.

*

Ngày thứ mười trên biển, Viễn vẫn chưa hết hy vọng về cha. Hàng ngày, anh vẫn đều đặn thức dậy trước bình minh, lặng lẽ chân trần ra bãi biển ngồi đợi. Chưa bao giờ anh thấy thời gian trôi chậm đến thế. Nỗi đau hai mươi năm trước lại hiện về. Cái ngày người ta tìm ra mẹ anh dưới ống cống. Nước mắt lăn dài trên gò má của người đàn ông đã trưởng thành. Ăn năn, hối hận. Anh nhớ hồi đó trong những giấc mơ gặp lại mẹ, bà vẫn thường dặn anh để ý tới cái chân của cha. Gặp lúc trái gió trở trời, nó hành hạ cha lắm. Nhưng bao nhiêu năm lăn lộn nuôi con trưởng thành, chắc cha đã bỏ quên nỗi đau của chính mình.

Gió vẫn rít qua hàng phi lao hàng đêm. Viễn bỏ dở công việc ở thành phố, em gái nghe tin cha đi biển chưa về cũng lật đật thu dọn hành lý về miền biển cùng anh trai đợi cha. Ngày thứ mười bốn, con tàu của chú Thịnh trở về, lừng lững sau ngọn hải đăng. Chỉ nhìn xa thôi, Viễn đã phát hiện ra được. Anh cùng cô em gái chạy ào xuống biển, gào lên gọi cha.

Vậy là cuối cùng người lính ấy cũng trở về. Ông ngồi thụp dưới tàu, áo rách bươm, mệt mỏi hiện rõ trên gương mặt già nua. Chắc hẳn ông đã chiến đấu cực khổ để trở về nơi đây. Anh em trong tàu có người đã mất tích. Cha lặng lẽ, chống nạng bước chậm trên bãi cát dài. Lúc đó, Viễn mới cảm nhận được nỗi đau mất mát của cha là quá lớn. Nên việc bám biển, nguyện ở lại nơi đây đối với cha là điều mong mỏi cuối cùng. Ba cha con cứ thế ôm nhau khóc. Biển ì ầm sóng. Trong bóng chiều loang lổ, ba cái bóng dìu dắt nương tựa lẫn nhau đi về phía ngôi nhà... ./.

Thụy

Nguồn Long An: https://baolongan.vn/nguoi-cha-a179481.html