Người em gái...
Đó là lời bộc bạch của cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn (93 tuổi), nguyên Chính trị viên, Bí thư chi bộ tàu không số từng hai lần vận chuyển vũ khí, đạn dược về chiến trường Quảng Ngãi khi nói về bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Đã 57 năm kể từ ngày gặp chị ở Bệnh xá Bác Mười, ký ức trong ông chẳng phôi pha.
Thành phố Nha Trang (Khánh Hòa) mùa hạ về đầy nắng. Sau khi được các anh ở Hội Cựu chiến binh phường Vĩnh Hải hướng dẫn, chúng tôi theo đường Đặng Tất, tìm đến nhà ông Trần Ngọc Tuấn nằm sâu trong con hẻm nhỏ thuộc khu dân cư số 8 của phường.
Trận chiến ở biển Quy Thiện
Ông Trần Ngọc Tuấn nghe tôi bảo từ Quảng Ngãi vào nên vui lắm. Ông hỏi nhiều về vùng biển Quy Thiện, xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ (nay là TX.Đức Phổ), vùng ven cửa biển Sa Kỳ, xã Bình Châu (Bình Sơn) giờ thay đổi ra sao? Cuộc sống của bà con dân chài một lòng theo cách mạng bây giờ có khá không? Bệnh xá Đặng Thùy Trâm ở xã Phổ Cường duy trì việc khám, chữa bệnh tốt không?

Ông Trần Ngọc Tuấn, ở khu dân cư số 8, phường Vĩnh Hải, TP.Nha Trang (Khánh Hòa) kể về tàu không số và bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
Nghe tôi trả lời, ông cười rồi bộc bạch, tôi quê ở xã Quế Thọ, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Sau khi vào bộ đội năm 1953, tôi được biên chế vào Đại đội 494, Tiểu đoàn 49, Trung đoàn 673, chiến đấu ở chiến trường Hạ Lào. Sau kháng chiến chống Pháp, ông Tuấn học Trường Lục quân Sơn Tây rồi biên chế về Quân chủng Hải Quân, trở thành trợ lý chính trị của Tiểu đoàn 130, đóng quân tại vùng Bãi Cháy, TX.Hòn Gai (Quảng Ninh). “Đời lính tôi có mặt ở nhiều vùng chiến trường, nhưng có lẽ gắn bó hơn với chiến trường Quảng Ngãi và may mắn được gặp bác sĩ Đặng Thùy Trâm”, ông Tuấn nói.
Ông Tuấn cho hay, đã 12 lần ông tham gia tàu không số chuyển vũ khí cho chiến trường, bắt đầu từ vùng đất lửa Vĩnh Linh (Quảng Trị) trở vào. Có chuyến vào tận vùng Tân An (Long An). Trước khi tàu không số C43B đến chiến trường Quảng Ngãi vào tháng 2/1968, thì trong tháng 3/1967, ông đã cùng thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng đưa tàu không số mang mật danh số 43 vào vùng biển Sa Kỳ. Nhưng rồi tàu bị địch phát hiện và phải kích nổ ở vùng biển gần bờ, rồi tất cả theo đường dây giao liên ngược ra Bắc.
“Lần vào chiến trường Quảng Ngãi tháng 2/1968, con tàu không số mang mật danh C43B gồm có 17 cán bộ, chiến sĩ. Tàu rời vùng Thủy Nguyên (Hải Phòng) để vào miền Nam. Thời điểm này, địch đã phát hiện đoàn tàu không số, nên thường ngày máy bay Mỹ cất cánh từ Hạm đội 7 để tuần tra. Còn ở vùng biển gần bờ thì hải thuyền của địch thường xuyên lùng sục. Do vậy, ở dưới đáy của mỗi con tàu không số đều đặt một tấn thuốc nổ cùng kíp điện, dây cháy chậm. Trường hợp bất khả kháng thì cho nổ tung con tàu chứ nhất định không để vũ khí rơi vào tay giặc. Và mỗi chuyến đi có thể không trở lại, nhưng tất cả vì miền Nam thân yêu, vì ngày thống nhất, nên có lệnh là đi”, ông Tuấn kể.
Sau 2 ngày 3 đêm vượt sóng gió con tàu đã đến vùng biển ngoài khơi đảo Lý Sơn. Cán bộ, chiến sĩ trên tàu nhanh chóng xác định sẽ đưa tàu cập bờ vào biển Đức Phổ vào ban đêm. Thế nhưng khi còn cách bờ chừng vài chục hải lý thì bất ngờ pháo sáng bùng lên. Con tàu không số đã bị nhiều tàu chiến, ca nô địch và máy bay trực thăng vây hảm. Mọi hỏa lực trên tàu đều dồn về hướng địch. Còn tài công mở hết tốc lực để đưa tàu vào bờ. “Chiến sĩ Bùi Xuân Rệ, người Thái Bình vừa mới cưới vợ xong là lên đường nhận nhiệm vụ nói: “Hãy trả thù cho em”, rồi tắt thở. Thủy thủ Phạm Văn Kiểm trước khi rời tàu trúng đạn nằm lại dưới lòng biển xanh. Thương nhất là chiến sĩ Võ Nho Tòng, cũng người Thái Bình, mới có người yêu. Tòng nói: Sau chuyến đi này trở về sẽ cưới vợ, sẽ mời anh Tuấn làm chủ hôn, lúc hy sinh tay vẫn còn nắm chặt súng”, ông Tuấn bùi ngùi.
Lên Bệnh xá Bác Mười
Vừa đánh vừa chạy, đến khi tàu không số vào cách bờ biển Quy Thiện chừng vài trăm mét, như phương án đã bàn trước, thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên, Bí thư chi bộ Trần Ngọc Tuấn đã lệnh cho tất cả chiến sĩ rời tàu. Rồi sau đó, cả hai người vừa bơi vừa vòng dây điện ra xa trước khi kích kíp điện. Một tiếng nổ vang lên, con tàu thành đuốc sống. Có những mảnh vỡ của thân tàu bay cách bờ rất xa.
Chị bộ thôn Quy Thiện, cùng anh em dân quân, du kích trong đêm đã đón các cán bộ, chiến sĩ tàu không số rồi đưa thẳng lên căn cứ ở xã Ba Khâm (Ba Tơ). Thế nhưng, Quốc lộ 1 đã bị địch vây chặt. Tại Núi Vàng, lính Mỹ bắn pháo sáng và nổ súng. Biết không thể đi được, toàn bộ 14 cán bộ, chiến sĩ tàu không số được đưa xuống hầm bí mật, phải mất một tuần sau đó mới lên được Bệnh xá Bác Mười - mật danh của Bệnh xá Đặng Thùy Trâm.
Ông Tuấn nhớ lại, bệnh xá gồm vài ngôi nhà sàn nằm bên cánh rừng già, xung quanh có đào hầm tránh pháo. Khi đoàn đến có 8 y, bác sĩ đón. “Chẳng ai biết bác sĩ Đặng Thùy Trâm đâu. Nhưng qua giọng nói, chúng tôi biết cô người miền Bắc. Cô ấy nói: Các anh đi hai đêm liền mới tới nơi. Để em xem vết thương các anh có bị nhiễm trùng không? Các anh đã lên đến đây rồi thì yên tâm. Chúng em sẽ cố gắng tìm các loại thuốc để chữa trị cho các anh. Chỉ mới nghe thôi, toàn bộ anh em cán bộ, chiến sĩ đã thấy an lòng”, ông Tuấn kể.
Thời điểm đó, chiến trường Đức Phổ vô cùng ác liệt. Những trận càn của địch nối tiếp nhau. Để đảm bảo thuốc men, lương thực, vải vóc và thậm chí cả ruột, lốp xe hơi để làm dép cao su cho thương binh, anh chị em y sĩ trong trạm theo đường dây về đồng bằng nhận hàng từ cơ sở để gùi lên. Y tá Kim Vui trong một lần trở về đồng bằng bị pháo địch bắn trúng hy sinh khi tuổi đời vừa tròn đôi mươi.
Thương người em gái Thùy Trâm
Cho đến bây giờ, những đêm ở phố biển Nha Trang trời trở gió, ông Tuấn nhớ đến Bệnh xá Bác Mười, nhớ những trận mưa rừng mà các y sĩ và bác sĩ Đặng Thùy Trâm lo chèn chống phòng cơn lốc đến cuốn đi lán trại. Năm đó, ở bệnh xá hơn một tháng, qua chuyện trò với bác sĩ Thùy Trâm và y sĩ của bệnh xá, ông Tuấn hiểu hơn về bác sĩ Đặng Thùy Trâm, và càng thêm quý trọng người con gái Hà Thành dấn thân nơi chiến trường khốc liệt.
Nói đến Đặng Thùy Trâm, ông Tuấn bảo, tôi thương Thùy Trâm như em gái của mình. Một điều mà ông Tuấn cùng anh em tàu không số khá bất ngờ là sau hơn 1 tháng điều trị, chuẩn bị lên đường vượt Trường Sơn trở lại miền Bắc. Mỗi cán bộ, chiến sĩ đều được trang bị một chiếc ba lô, hai bộ quần áo bà ba đen, một chiếc võng ni lông, cùng tấm tăng che mưa và một ruột tượng đựng gạo và cả thuốc kí ninh để phòng sốt rét. Nhận được đồ từ tay bác sĩ Đặng Thùy Trâm ai cũng xúc động. Ông Tuấn tiếp tục câu chuyện, ngày chia tay đúng như trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm viết: ...Nghe anh Tuấn ra lệnh “Tất cả ba lô lên đường”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai. Mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình, bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng, một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong mình như mặt sông những ngày mưa lũ và... mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người: “Thôi! Các anh đi. Hẹn một ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu”.
Năm 1970, ông Tuấn chuyển sang công tác ở trường thủy sản tại tỉnh Hưng Yên. Sau ngày thống nhất , ông chuyển về công tác ở Trường đại học Thủy sản Nha Trang rồi nghỉ hưu. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất...
Bài, ảnh: CẨM THƯ
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/nguoi-em-gai-53536.htm