Người thắp lửa văn hóa ở làng Pơ Nang
Ở làng Pơ Nang, xã Lơ Pang, tỉnh Gia Lai, có một người đàn ông lặng lẽ tìm cách hồi sinh những điệu then, điệu xoang, tiếng lượn, tiếng cồng chiêng của các dân tộc. Đó là ông Hoàng Văn Soạn, người uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, được bà con gọi bằng cái tên trìu mến 'người giữ hồn của làng'.

Ông Hoàng Văn Soạn (thứ hai, từ phải sang) trong một buổi sinh hoạt hát then - đàn tính tại làng Pơ Nang. Ảnh: Trần Tuấn
Làng Pơ Nang có 90% là người dân tộc thiểu số, trong đó, dân tộc Ba Na chiếm 66%; còn lại là các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Thái, Cao Lan và Kinh. Người Ba Na theo đạo Tin lành nên từng từ bỏ tín ngưỡng truyền thống, không đánh cồng chiêng trong đám ma, không cúng nhà rông, không cúng thần lửa, thần nước, cúng Yàng... khiến bản sắc văn hóa và phong tục, tập quán của dân tộc dần bị mai một. Một thời bà con còn đua nhau bán chiêng, hoặc dùng chiêng làm máng thức ăn cho gia súc, gia cầm. Cộng đồng người Tày, Nùng... di cư từ phía Bắc vào, có phần sao nhãng duy trì các phong tục, tập quán truyền thống trên quê hương mới. “Đám ma của người Ba Na không còn tiếng chiêng, mùa lễ hội không còn điệu xoang; đám cưới, đám đầy tháng của người Tày, Nùng không còn tiếng lượn, tiếng then. Tôi thấy lòng mình trống trải vô cùng” - ông Soạn trăn trở và chính nỗi niềm ấy khiến ông quyết định khôi phục văn hóa truyền thống cho cả cộng đồng.
Không kinh phí, không nhạc cụ, không trang phục, ông Soạn bắt đầu hành trình hồi sinh văn hóa dân tộc bằng cách tập hợp những người có năng khiếu và đam mê. Ông liên hệ với bà con ở quê nhà (Thái Nguyên) để xin từng cây đàn tính, vận động bạn bè gửi từng bộ áo chàm từ đất Bắc vào rồi thành lập đội hát then - đàn tính. Ngày đầu, chỉ có 5 người, đến nay, đội đã có 9 người hát then và 8 người múa chầu, 10 cây đàn tính cùng nhiều bộ quần áo chàm của người Tày, Nùng. Một bộ cồng chiêng 21 chiếc cũng được dân làng mua lại để thành lập đội cồng chiêng gồm 22 người và một đội múa xoang gồm 30 người chuyên phục vụ các gia đình trong làng và các ngày lễ của địa phương.
Cùng với cán bộ trong làng, xã, ông Soạn vận động nhân dân mỗi khi tổ chức cưới xin, ma chay đều đánh cồng chiêng. Hằng năm, vào Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc, người Thái khoe sắc áo cóm, người Ba Na khoe bộ thổ cẩm, người Tày, Nùng khoe áo chàm thướt tha... Trang phục truyền thống được sử dụng nhiều hơn nên nhiều chị em người Ba Na đã tự dệt thổ cẩm cho các thành viên trong gia đình; có 4 chị chuyên cắt may những bộ quần áo chàm để bán cho dân làng; có nghệ nhân chỉnh chiêng cho buôn làng. Ngày cưới, lễ hội, bà con thể hiện tài nấu các món ăn truyền thống của dân tộc. Cá nhân ông Soạn đã dạy cho 12 người biết làm các món ăn của người Tày, Nùng, Thái như: Khâu nhục, gà nướng, cá nướng gói lá chuối, khẩu sli, xôi ngũ sắc, bánh giầy ngải cứu...
Ông Soạn còn có công trong việc vận động các cặp đôi tổ chức đám cưới đơn giản, tiết kiệm, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ nhiều năm nay, khi trong làng có đôi trẻ nên vợ nên chồng, ông đều đến tận nhà để phân tích ý nghĩa của việc giữ gìn phong tục truyền thống, đồng thời động viên hai bên gia đình bỏ bớt các thủ tục rườm rà, phô trương tốn kém. Nhờ vậy, những hủ tục như thách nhà trai bạc trắng, tiền mặt, rượu, gạo... hay việc tổ chức nhiều mâm cỗ linh đình đã dần được xóa bỏ. Thay vào đó, đám cưới trở nên ấm cúng, gần gũi và đậm chất văn hóa của từng dân tộc: Cô dâu, chú rể mặc trang phục truyền thống; khi đón rể, đón dâu đều vang lên tiếng hát quan làng, những lời chúc phúc mộc mạc mà thiêng liêng của bà con trong buôn làng.
Không chỉ gìn giữ nếp cưới, ông Soạn còn tổ chức nhiều buổi lễ đầy tháng cho trẻ nhỏ theo đúng phong tục các dân tộc Tày, Nùng, Ba Na... Tại đó, những bài hát ru ngọt ngào do chính họ hàng nội, ngoại của cháu bé thể hiện, lễ cầu an được bà Then và các nàng Then tiến hành trang trọng, mang theo lời chúc bình an cho đứa trẻ trong những bước đi đầu đời. Không khí gia đình sum vầy, tiếng đàn tính dìu dặt, tiếng khấn nguyện thành tâm như gắn kết mọi người lại gần nhau hơn.

Đội hát then - đàn tính làng Pơ Nang. Ảnh: Trần Tuấn
Ông còn đứng ra vận động bà con thực hiện lễ nhập trạch, mừng tân gia theo đúng phong tục, tập quán của từng dân tộc, coi đó như một cách bảo tồn di sản tinh thần ngay trong nếp sống hằng ngày. Trong những buổi lễ đó, ông thường nhắc nhở mọi người sử dụng rượu cần thay vì rượu mạnh, vừa đỡ tốn kém, vừa đảm bảo sức khỏe và phù hợp với lối sống cộng đồng.
Với nhà rông – biểu tượng linh thiêng của văn hóa Ba Na, ông Soạn đặc biệt trăn trở. Ông giải thích cho lớp trẻ rằng, đây không chỉ là nơi sinh hoạt cộng đồng, mà còn là cầu nối giữa con người với Yàng, do vậy chỉ nên sử dụng trong những nghi lễ trang trọng, không tùy tiện biến thành nơi tụ tập, vui chơi thường ngày. Nhờ sự tuyên truyền kiên trì, nhẹ nhàng mà thấm thía của ông, thanh niên trong làng đã ý thức hơn trong việc giữ gìn sự tôn nghiêm của nhà rông, xem đó là trách nhiệm chung của cả cộng đồng.
Ông bảo, người Tày, Nùng, Thái ở phía Bắc vào Tây Nguyên lập nghiệp thường ở xen kẽ với người Kinh. Do tập trung xây dựng kinh tế mới nên con cái sinh ra thường chỉ nói tiếng phổ thông, dẫn đến không biết tiếng và chữ viết của dân tộc mình. Ông vận động bà con giao tiếp bằng tiếng của dân tộc mình với các cháu khi ở nhà, để dù xa quê hương, các cháu vẫn giữ gìn, phát huy được bản sắc văn hóa của dân tộc. Ông còn có ý định mở lớp dạy tiếng nói, chữ viết của người Tày, Nùng nhằm nối dài nhịp cầu văn hóa giữa thế hệ hôm nay và mai sau.
Hôm nay, ở làng Pơ Nang, tiếng chiêng đã vang lên trong lễ cưới, lễ mừng nhà mới. Món ăn dân tộc lại xuất hiện trong mỗi dịp hội làng. Người trẻ đã biết mặc áo chàm, người già nở nụ cười khi nghe lại khúc then xưa. “Đáng quý nhất là bà con đã tin rằng, giữ văn hóa là giữ hồn dân tộc” - ông Soạn nói. Những nỗ lực thầm lặng của ông không chỉ hồi sinh di sản văn hóa của các dân tộc mà còn lan tỏa tinh thần đoàn kết, nhân văn, gìn giữ cội nguồn giữa thời hội nhập.
Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/nguoi-thap-lua-van-hoa-o-lang-po-nang-post497779.html











