Người thầy của nhiều nhà thơ nổi tiếng

Nhà thơ Hà Nhật tuổi 85. Ảnh: LÊ THIẾU NHƠN

Nhắc đến nhà thơ Hà Nhật, có thể công chúng hơi ngờ ngợ. Thế nhưng, nhắc đến nhà giáo Lương Duy Cán thì có rất nhiều thế hệ học trò lập tức nhận ra một người thầy dạy văn nổi tiếng. Trong những học trò của nhà giáo Lương Duy Cán đã có không ít nhà thơ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Nhật Thu, Ngô Minh, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Đỗ Hoàng... Vậy thì, dựa từ ý niệm “danh sư xuất cao đồ”, thử tìm đọc thơ của Hà Nhật - Lương Duy Cán.

Bút danh Hà Nhật được ghép từ tên gọi làng Hà thuộc TP Đồng Hới và dòng sông Nhật Lệ của tỉnh Quảng Bình, là nơi Lương Duy Cán chào đời năm 1937. Ông còn dùng một bút danh khác là Mai Liên khi viết Hai bài thơ tình của người thủy thủ mùa hè năm 1961, sau đó được nhạc sĩ Hoàng Vân phổ nhạc thành ca khúc Tình ca người thủy thủ quen thuộc hơn nửa thế kỷ qua: “Nhổ neo ra khơi/ Đêm nay khi trăng mọc/ Tàu anh sẽ nhổ neo ra khơi/ Tạm biệt em yêu/ Vẫy chào thành phố biển thân yêu”.

Hà Nhật khởi sự làm thơ từ những ngày học trò ở Huế, khi nghe Mưa đêm Vỹ Dạ năm 1953 “Mưa rơi trên ngọn dừa/ Mưa rơi vào cành lá/ Buông vào lòng khách lạ/ Một nỗi nhớ bâng quơ” lẫn khi thẫn thờ “Trên đồi sim” năm 1954 “Chiều nay/ Hành lý trên tay/ Mình trở về dấu cũ/ Lòng thương nhớ ngất ngây/ Tiếc tình xưa tan vỡ/ Như những cánh sim bay”.

Sau Hiệp định Geneve, Lương Duy Cán ra Hà Nội học tiếp trung học và trở thành sinh viên khoa Văn của Trường đại học Sư phạm Hà Nội. Giữa không khí làm thơ lúc bấy giờ, phẩm chất thi sĩ của Hà Nhật đã nhen nhóm cảm xúc khác biệt.

Cầm tấm bằng cử nhân, Lương Duy Cán được phân công đi dạy học ở Nghệ An gần 3 năm, rồi chuyển vào dạy học ở quê nhà Quảng Bình. Trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn, thơ Hà Nhật có một chọn lựa mới: “Tôi vẫn nghĩ thơ phải là gang thép/ Thơ phải làm ra lúa ra khoai/ Nhưng nếu thơ tôi mọc dậy ở quê nghèo/ Tôi ao ước thơ tôi làm hạt muối”. Và nhà giáo Lương Duy Cán lập tức được học trò mến mộ bởi những giờ lên lớp truyền cảm hứng yêu văn chương say đắm. Ngược lại, nhà thơ Hà Nhật “Ghi trong sổ tay” những câu chữ cồn cào hơn: “Tóc em dài như một tiếng chuông/ Buông ngân nga khi buổi chiều xuống chậm/ Tôi, người khách giữa đường chiều phiêu lãng/ Nghe chuông buông chợt nhớ khói quê nhà/ Chiều xuống rồi, tôi vẫn mãi đi xa/ Lòng ngơ ngẩn bỗng òa rơi nước mắt”.

Chứng kiến cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào những giao tranh khốc liệt, thơ Hà Nhật cũng đồng hành “Có lẽ bởi em đang đi đò qua sông/ Cho lòng anh chòng chành những sóng/ Đêm Quảng Bình bốn bề cháy bỏng”. Từ góc nhỏ riêng tư “Con kinh ngạc trở về nơi mẹ ở/ Vẫn còn đây cây thị của con.../ Cây thị ấy giữa tim con chân thật/ Là một khoảng trời hạnh phúc sáng trong.../ Khi kẻ địch rất gần, khi mịt mờ lửa đạn/ Là lúc mẹ già trong bóng thị đứng bên con/ Như cả bầu trời và mặt đất bình yên”, ông nhìn rộng ra vẻ đẹp của TX Đồng Hới năm 1968 khói lửa “Khi quân thù mang cái chết đi qua/ Ta bỗng nhận ra/ Những đóa hoa đã giúp ta bình tĩnh thế/ Tưởng như những đóa hoa nhỏ bé/ Đẩy cái chết lùi xa”.

* * *

Tập thơ Đá sỏi trên đường của Hà Nhật

Non sông thống nhất, Hà Nhật “hát mừng đất nước” hân hoan “Những người cày ruộng làm thơ/ Em đi nhà máy hát mưa trăng rằm/ Tiếng đàn bầu của nghìn năm/ Trăm đời sau vẫn vang ngân trước mành” và ông có mặt trong đội ngũ những người đầu tiên chi viện cho giáo dục miền Nam. Năm 1978, nhà giáo Lương Duy Cán dạy học ở Phan Thiết và gặp gỡ được duyên phận đời mình. Đồng nghiệp Thanh Phương nhỏ hơn 17 tuổi đã khiến nhà thơ Hà Nhật xao động: “Tình anh như muối kia/ Không màu và lặng lẽ/ Em như làn gió nhẹ/ Thổi qua vườn cây chiều”. Thế nhưng, cô giáo Thanh Phương là con gái của một gia đình quyền quý, nên phụ huynh đâu dễ chấp nhận con gái mình hẹn hò với một gã trung niên túng bấn. Cha mẹ gọi cô giáo Thanh Phương vào TP Hồ Chí Minh; Hà Nhật nấc lên những cung tơ não nề “Bài hát xưa, anh ngồi hát một mình/ Mưa đầy phố khiến giọng anh khàn đục/ Chẳng có gió cho hàng cây thổn thức/ Chỉ im lìm trời lạc tiếng mưa rơi” và không nguôi mong ngóng “Bây giờ em đã xa anh/ Cái thành phố ấy không xanh nữa rồi/ Vầng mây đã tối ngang trời/ Những ô cửa sổ em ơi, đâu còn/ Anh đi tìm lại lối mòn/ Tìm không thấy lối, chỉ còn gió bay”.

Cũng may, tình yêu của cô giáo Thanh Phương đã vượt qua mọi trở ngại. Năm 1979, nhà giáo Lương Duy Cán cưới vợ ở tuổi 42, và dần dần chứng minh đẳng cấp của một nhà giáo dạy Văn tại Trường cao đẳng Sư phạm TP Hồ Chí Minh. Hiền thê Thanh Phương không chỉ sinh cho nhà thơ Hà Nhật hai đứa con Thùy Dương và Duy Bình, mà còn gìn giữ ngọn lửa thi ca trong lòng ông. Những lúc cách biệt, Hà Nhật nhắn gửi vợ sự thấu hiểu trân trọng “Nắng miền Trung đổ lửa/ Sài Gòn đang mưa to/ Em thương anh nơi xa/ Chiều mưa che áo mỏng/ Em thật là vớ vẩn/ Lo anh như trẻ thơ/ Sài Gòn chiều nay mưa/ Nghĩ thương em cháy ruột”.

Cô giáo Thanh Phương không may đi trước chồng một bước về miền thăm thẳm. Nhà thơ Hà Nhật gói ghém ân nghĩa tào khang 40 năm 11 tháng 9 ngày bằng nỗi xót thương: “Ai hay một cánh cò còn bay đến thơ anh/ Một cánh cò còn bay đến đời anh/ Một cánh cò còn đơn độc hơn xưa/ Một cánh cò còn nhọc nhằn hơn xưa/ Một cánh có chỉ đến với riêng anh/ Có bài ca dao nào dành cho em không/ Có bài thơ cánh cò nào dành cho em không”.

Nhà thơ, nhà giáo Hà Nhật - Lương Duy Cán đã sống một cuộc đời hiền lành và nề nếp. Càng nhiều tuổi, ông càng khắc khoải tự vấn. Ông tự vấn cho bản thân khi ngồi Dưới chân núi Rùa yên bình thanh tịnh “Nghìn năm mây trắng bay trên núi Rùa/ Nghìn năm núi Rùa hồn nhiên và lẳng lơ/ Anh cả một đời tính toan và sợ hãi/ Nghìn năm biển thét ngoài kia núi Rùa/ Nghìn năm núi Rùa thản nhiên trầm mặc/ Anh cả một đời không dám ghét dám yêu/ Nghìn năm trăng lên hoang sơ trên đỉnh núi Rùa/ Nghìn năm núi Rùa thơ ngây quyến rũ/ Anh cả một đời không dám đi xa”. Và ông tự vấn cho kiếp người khi Một lần ngang qua Hollywood choáng ngợp phấn son “Té ra mọi điều, đều sau những cánh cửa kia/ Những hẹn hò mộng mơ nhất/ Những chuyện tình bi thương nhất/ Người anh hùng tử trận ngàn năm xưa/ Vừa lướt qua tôi trước mặt/ Thế mà tôi từng rơi lệ.../ Té ra tất đều là kịch/ Té ra ta vẫn tin vào kịch hơn đời/ Ước gì mọi nỗi đau của đời, là chỉ trên phim trường”.

Nhà thơ, nhà giáo Hà Nhật - Lương Duy Cán đã sống một cuộc đời hiền lành và nề nếp. Trong những học trò của nhà giáo Lương Duy Cán đã có không ít nhà thơ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Nhật Thu, Ngô Minh, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Đỗ Hoàng...

LÊ THIẾU NHƠN

Nguồn Phú Yên: http://baophuyen.vn/89/271588/nguoi-thay-cua-nhieu-nha-tho-noi-tieng.html