Nguồn lực trí thức, KHCN của kiều bào - lợi thế chiến lược của Việt Nam

Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) trân trọng giới thiệu bài viết: 'Nguồn lực trí thức, khoa học công nghệ của kiều bào - lợi thế chiến lược của Việt Nam trong cuộc đua toàn cầu kỷ nguyên mới.'

Đoàn kiều bào trên 'Chuyến tàu Đại đoàn kết' cùng nhau xếp thành hình trái tim giữa biển khơi bao la. (Ảnh: Huy Khánh/Vietnam+)

Đoàn kiều bào trên 'Chuyến tàu Đại đoàn kết' cùng nhau xếp thành hình trái tim giữa biển khơi bao la. (Ảnh: Huy Khánh/Vietnam+)

Hội nghị toàn quốc tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về việc công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và các văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, dự kiến diễn ra chiều 25/12, tại Hà Nội.

Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao) Nguyễn Trung Kiên có bài viết: “Nguồn lực trí thức, khoa học công nghệ của kiều bào - lợi thế chiến lược của Việt Nam trong cuộc đua toàn cầu kỷ nguyên mới."

TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết:

“Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới. Để tạo cơ sở bứt phá và nền tảng vững chắc cho phát triển trong tương lai, Bộ Chính trị đã ban hành một loạt nghị quyết chiến lược - những trụ cột thể chế của kỷ nguyên phát triển mới. Trong đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57) là nghị quyết mang tính đột phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với nhận thức khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là phương tiện hỗ trợ, mà phải được xác định là động lực phát triển và lực đẩy chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong kỷ nguyên mới; đồng thời, nhấn mạnh nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là thu hút, trọng dụng và phát huy đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.

Người Việt Nam ở nước ngoài - nguồn lực chiến lược của đất nước

Thực tiễn lịch sử cho thấy trong những thời khắc khó khăn, bước ngoặt của đất nước, đội ngũ trí thức và chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài luôn là nguồn lực đặc biệt quan trọng. Ngay từ thời kỳ kháng chiến và xây dựng nền móng ban đầu của Nhà nước, nhiều trí thức kiều bào đã trở về, trực tiếp đặt nền tảng cho khoa học, công nghệ, y tế và quốc phòng của đất nước.

Tiêu biểu như Giáo sư Trần Đại Nghĩa, người đặt nền móng cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam, hay Lương Định Của, nhà khoa học nông nghiệp tiêu biểu góp phần nâng cao năng suất, bảo đảm an ninh lương thực trong điều kiện vô cùng khó khăn.

Đến giai đoạn đất nước bị bao vây, cấm vận, nhiều trí thức, doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục trở về, mang theo tư duy khoa học, quản trị hiện đại và kinh nghiệm quốc tế, góp phần khơi thông các nguồn lực phát triển, tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới và hội nhập sâu rộng sau này.

Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã lên tới gần 6,5 triệu người, sinh sống tại trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, hội nhập sâu rộng, khẳng định được vị thế ở nước sở tại. Trong xu hướng phát triển chung của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, lực lượng trí thức kiều bào cũng không ngừng tăng cả về chất lượng và số lượng, ngày càng thành đạt, xác lập được uy tín, danh tiếng quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 Khối Kiều bào Việt Nam diễu qua Lễ đài trong Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Ảnh: Phạm Kiên/ TTXVN)

Khối Kiều bào Việt Nam diễu qua Lễ đài trong Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Ảnh: Phạm Kiên/ TTXVN)

Theo thống kê chưa đầy đủ, số lượng chuyên gia, trí thức (có trình độ đại học trở lên) chiếm khoảng 10-15% cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (tương đương 650.000 người). Các hội đoàn, mạng lưới chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài ngày càng phát triển (hiện có 10 mạng lưới đổi mới sáng tạo tại các nước với 2000 chuyên gia, trên 30 hội chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài). Người Việt Nam ở nước ngoài, bằng vốn hiểu biết, kinh nghiệm quốc tế và mạng lưới quan hệ rộng khắp, đã trở thành cầu nối đưa công nghệ, tri thức, phương thức quản trị tiên tiến về Việt Nam.

Từ thực tiễn đó, nhiều kiều bào đã trở về hoặc kết nối từ xa để đóng góp cho đất nước. Tiêu biểu như ông Jonathan Hạnh Nguyễn với vai trò tiên phong trong kết nối thương mại-dịch vụ quốc tế, hay ông Phạm Nhật Vượng trong việc xây dựng các tổ hợp công nghiệp, công nghệ cao, từng bước đưa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Ngoài ra, hằng năm, có khoảng 300-400 lượt kiều bào về nước tham gia hỗ trợ giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực, trong đó có các ngành công nghệ mũi nhọn, chiến lược. Không ít người đã trực tiếp tham gia vào các dự án trọng điểm quốc gia, góp phần nâng tầm trí tuệ và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thông qua các chương trình, hội nghị do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức, trí thức kiều bào đã tích cực hiến kế về những vấn đề phát triển của đất nước.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, vai trò chiến lược của nguồn lực trí thức, khoa học-công nghệ của kiều bào càng được khẳng định rõ nét. Trí thức Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện tiếp cận các trung tâm nghiên cứu tiên tiến, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, mạng lưới chuyên gia và nguồn vốn toàn cầu mà trong nước trước đây chưa đầy đủ.

 110 thanh niên, sinh viên kiều bào tiêu biểu và các đại biểu chụp ảnh lưu niệm bên Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Quảng Bình (phường Đồng Hới, tỉnh Quảng Trị). (Ảnh: Võ Dung/TTXVN)

110 thanh niên, sinh viên kiều bào tiêu biểu và các đại biểu chụp ảnh lưu niệm bên Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Quảng Bình (phường Đồng Hới, tỉnh Quảng Trị). (Ảnh: Võ Dung/TTXVN)

Cộng đồng chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài có mặt trên nhiều lĩnh vực khoa học-công nghệ, từ khoa học cơ bản đến các ngành kỹ thuật ứng dụng, không chỉ có trình độ học thuật cao mà còn giữ những vị trí quan trọng trong giới khoa học quốc tế, từ giáo sư, trưởng nhóm nghiên cứu cho đến quản lý cấp cao trong các tập đoàn công nghệ. Lợi thế đặc biệt của đội ngũ trí thức kiều bào nằm ở trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm dày dạn trong môi trường quốc tế, bao gồm hai nhóm chính.

Một là, trí thức Việt được đào tạo trong nước, sau đó ra nước ngoài học tập, làm việc tại các trung tâm khoa học-công nghệ hàng đầu và đạt thành tựu. Hai là, thế hệ trí thức trẻ gốc Việt sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, được thụ hưởng nền giáo dục tiên tiến.

Các mạng lưới, liên kết của chuyên gia, trí thức kiều bào đã và đang tích cực, hợp tác, hỗ trợ trong nước. Đáng chú ý, các nhóm trí thức này chủ yếu bao gồm những người trong độ tuổi 25-40, là thế hệ kiều bào thứ 2, thứ 3 hoặc du học sinh ở lại nước ngoài sinh sống, làm việc. Điều này cho thấy tình cảm hướng về Tổ quốc không chỉ ở các thế hệ sinh ra ở Việt Nam mà thế hệ trẻ kiều bào sinh ra và lớn lên ở nước ngoài cũng rất mong muốn đóng góp cho quê hương, đất nước. Nhiều người Việt đã rời bỏ các nước phát triển với mức lương đãi ngộ cao để về tham gia giảng dạy, nghiên cứu ở trong nước.

Khi được khơi dậy và phát huy đúng hướng, nguồn lực trí thức, khoa học-công nghệ của kiều bào không chỉ giúp rút ngắn khoảng cách phát triển, mà còn trở thành lợi thế chiến lược để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động tham gia cuộc đua toàn cầu trong kỷ nguyên mới.

Trong các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao nhân các chuyến thăm tới các nước hoặc tại các hội nghị, hội thảo trong nước, kiều bào đều bày tỏ rất phấn khởi trước những chuyển biến mạnh mẽ của đất nước, đặc biệt đánh giá rất cao việc ban hành những chủ trương lớn về phát triển đất nước, các luật về căn cước, đất đai, nhà ở, quốc tịch sửa đổi, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo… Bà con mong muốn được đồng hành, hòa chung với nhịp đập của dân tộc, đồng thời mong muốn được tiếp tục tạo điều kiện để đóng góp nhiều hơn trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bên cạnh đó, kiều bào, đặc biệt là những chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài, cũng bày tỏ những băn khoăn, trăn trở khi về nước trong đó có những vấn đề như thủ tục hành chính, pháp lý, chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc, hỗ trợ thân nhân, thiếu thông tin đặt hàng cụ thể…

Thực tế thời gian qua, công tác thu hút kiều bào trí thức đã đạt một số kết quả bước đầu nhưng chưa tạo được đột phá và chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của kiều bào. Các rào cản lớn vẫn tồn tại như thủ tục hành chính rườm rà, chế độ lương thưởng chưa cạnh tranh, môi trường nghiên cứu thiếu tự chủ, cơ chế trọng dụng hạn chế, cùng những bất cập về hạ tầng, vốn đầu tư và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Ngoài một số ít cá nhân đã về nước lâu năm, còn lại phần lớn về nước giảng dạy, tham dự hội thảo hoặc tham gia chương trình, dự án song phương trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, trí thức kiều bào chưa thể “bám rễ," kết nối với đồng nghiệp trong nước, chưa phát huy được hết thế mạnh của mình.

Tạo đột phá khơi thông nguồn lực tri thức kiều bào

Với quan điểm xuyên suốt, coi đồng bào ta ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, là nguồn lực quan trọng của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, hỗ trợ bà con có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội sở tại; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; khuyến khích và tạo điều kiện để bà con đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhận thức rõ tiềm năng đóng góp của đội ngũ chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là vai trò quan trọng trong việc triển khai thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng và là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước đã không ngừng ban hành và hoàn thiện hệ thống chính sách để thu hút, phát huy trí tuệ kiều bào.

Nghị quyết số 57 đã tạo nên một cú hích thể chế mạnh mẽ, mở ra không gian và cơ chế để trí thức ngoài nước có thể phát huy tối đa tiềm năng. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch đã nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam, đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài cho bà con. Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo vừa được ban hành cũng tạo đà thu hút sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 Những kiều bào đang sinh sống, học tập và làm việc tại Kyushu-Okinawa, Nhật Bản. (Ảnh: Xuân Giao/TTXVN)

Những kiều bào đang sinh sống, học tập và làm việc tại Kyushu-Okinawa, Nhật Bản. (Ảnh: Xuân Giao/TTXVN)

Triển khai thực hiện Nghị quyết 57, một loạt các nghị định, chiến lược đã và đang được ban hành trong đó đề ra những cơ chế, chính sách cụ thể nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc như Nghị định số 231/2025/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tuyển chọn, sử dụng Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị định số 249/2025/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đồng thời góp phần tạo lập một hệ sinh thái khoa học-công nghệ minh bạch, hiện đại và đủ sức hấp dẫn để trí thức, chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài cùng tham gia hiện thực hóa các mục tiêu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển khoa học-công nghệ khi cộng đồng trí thức Việt Nam ở nước ngoài ngày càng đông đảo, trình độ cao và mong muốn đóng góp cho quê hương.

Để phát huy hơn nữa nguồn lực tri thức, khoa học công nghệ của người Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao xác định nhiệm vụ thu hút chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn mới là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời kiến nghị ưu tiên triển khai một số giải pháp:

Một là, tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế, chính sách và khâu thực thi, đặc biệt là việc hiện thực hóa hệ thống pháp luật vào cuộc sống nhằm tạo môi trường thuận lợi để các chuyên gia, nhà khoa học yên tâm cống hiến.

Hai là, xây dựng hệ sinh thái kết nối đồng bộ giữa doanh nghiệp-viện, trường-cơ quan quản lý, gắn với cơ chế tài chính linh hoạt, độc lập theo thông lệ quốc tế.

Ba là, xác định rõ vai trò dẫn dắt của các bộ, ngành trong quản lý chuyên môn và trong kết nối kiều bào, thúc đẩy hợp tác về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Bốn là, tăng cường quyền tự chủ cho địa phương và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo là giải pháp then chốt nhằm bảo đảm hoạt động thu hút chuyên gia gắn chặt với nhu cầu thực tiễn của từng địa phương, từ đó tạo ra động lực bền vững cho việc phát huy nguồn lực trí thức kiều bào.

Có thể khẳng định đội ngũ chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn là nguồn lực quan trọng góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự đồng hành, chung sức của các bộ, ngành, địa phương, việc triển khai đồng bộ, kịp thời các giải pháp khơi thông nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài sẽ là điều kiện để Việt Nam có thể biến tri thức kiều bào thành động lực chiến lược, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 57 và bứt phá trong kỷ nguyên khoa học-công nghệ"./.

(TTXVN/Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/nguon-luc-tri-thuc-khcn-cua-kieu-bao-loi-the-chien-luoc-cua-viet-nam-post1084991.vnp