Nguyễn Công Trứ: Danh thần 'ngất ngưởng' cả đời vì dân vì nước
Nguyễn Công Trứ - danh thần lỗi lạc, vị quan trung liêm và nhà thơ tài hoa suốt cả cuộc đời không ngừng cống hiến vì dân vì nước.

Lễ giỗ hàng năm vào 14/11 âm lịch tại khu di tích.
Từ hành trình vào quan trường muộn màng đến những công cuộc an dân, khai hoang và phát triển văn hóa, ông để lại dấu ấn sâu đậm trong sử sách, cùng khối tư tưởng và nhân cách “ngất ngưởng” khiến hậu thế muôn đời ngưỡng vọng.
Muộn màng nhưng lừng lẫy
Nguyễn Công Trứ, tên tục là Củng, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, sinh ngày 1/11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19/12/1778, tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Theo một số tài liệu, ông sinh ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ (Thái Bình, nay là Hưng Yên), và đến năm 10 tuổi mới theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh.
Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha ông - Nguyễn Công Tấn, đỗ cử nhân năm 24 tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, rồi thăng dần đến tri phủ Tiên Hưng (Thái Bình, nay là Hưng Yên). Trong thời buổi biến động khi quân Tây Sơn chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn từng xướng nghĩa cần vương, nhưng không thành, đành đưa gia quyến về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ nhiều lần mời ông ra làm quan, song ông từ chối, chọn cuộc sống ẩn sĩ, truyền bá chữ nghĩa.
Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Gia đình có sáu anh em, trong đó một người chị nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn, được đương thời gọi là “Năng văn nữ sĩ”. Góa chồng khi mới 19 tuổi, bà quyết không tái giá, xuất gia đi tu, được vua Minh Mệnh phong tặng danh hiệu “Trinh tiết khả phong”.
Nguyễn Công Trứ lớn lên trong cảnh nghèo khó. Khi nhà Nguyễn đã ổn định nền thống trị, ông mang hoài bão lập thân giúp đời, hăng hái đèn sách dù tuổi đã không còn trẻ. Phải đến năm 1819, ở tuổi 41, ông mới đỗ Giải nguyên - người đỗ đầu trong kỳ thi Hương và được bổ dụng làm quan. Bước khởi đầu muộn màng ấy mở ra một hành trình quan lộ phi thường, đầy thăng trầm nhưng cũng vô cùng rực rỡ.
Chỉ một năm sau, năm 1820, Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu tại Quốc sử quán. Từ đó, ông liên tiếp kinh qua nhiều chức vụ quan trọng: Tri huyện Đường Hào (Hải Dương), Tư nghiệp Quốc Tử Giám (1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), rồi Tham tán quân vụ, Thị lang bộ Hình (1826)... Đến năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri bộ Hình, giữ chức Dinh điền sứ - một bước ngoặt đưa tên tuổi Nguyễn Công Trứ gắn với sự nghiệp khẩn hoang lừng lẫy.
Trong hơn hai thập kỷ làm quan, Nguyễn Công Trứ đã giữ cả chục chức vụ lớn nhỏ, đảm trách nhiều trọng trách từ chính trị, quân sự đến văn hóa, giáo dục. Năm 1832, ông được thăng Tham tri bộ Binh, kiêm Tổng đốc tỉnh Hải An. Về sau, ông từng là Chủ sự bộ Hình, quyền Án sát Quảng Ngãi, Phủ doãn Thừa Thiên... Ở tuổi 70, ông xin về hưu nhưng bị từ chối, phải đợi đến năm 1848 - niên hiệu đầu tiên dưới triều Tự Đức ông mới được nghỉ hưu thực sự.
Tự nhận mình là người “ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục”, Nguyễn Công Trứ từng tổng kết cuộc đời bằng một câu đối dài, ngạo nghễ nhưng cũng đầy hào sảng. Ông nhìn lại những tháng năm làm quan, những phen vào sinh ra tử, những ngày “võng tía dù xanh”, những đêm “gió mát trăng trong”, và hài lòng với một đời “mùi thế trải qua ngần ấy đủ”.

Nguyễn Công Trứ - danh nhân lỗi lạc, vị quan trung liêm, nhà thơ tài hoa, suốt đời sống vì dân, vì nước.
Vị quan vì dân
Không chỉ là danh thần tài hoa, Nguyễn Công Trứ còn là người luôn trăn trở vì dân vì nước. Ông tự vấn: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.
Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ dâng lên vua Gia Long bản “Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:
“Giữ lòng trung ái,
Chăm đạo dâu con,
Phát triển nông trang,
Trừ bỏ dị đoan,
Sửa đổi phong tục,
Thanh thải tham tàn,
Tiến cử tài đức,
Giữ nghiêm luật lệ”.
Về sau, khi đỗ đạt, ra làm quan, “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, Nguyễn Công Trứ lao vào công việc hăng say, không quản gian lao, vất vả.
Trong cuộc đời làm quan, ông nổi bật với hai cống hiến lớn: An dân và khai hoang. Trong công cuộc an dân, ông từng dẹp yên các cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành (Nam Định), Nùng Văn Vân (Tuyên Quang), Lê Duy Phương (Thanh Hóa)... Ông lo lắng đến từng bữa ăn, giấc ngủ của dân nghèo, đề xuất mở trường học, lập “xã thương” điều tiết lương thực, khuyến khích văn hóa học đường, mạnh mẽ vạch mặt “cái hại cường hào”, tố cáo tệ tham tàn làm dân mất nhà mất cửa, và dũng cảm đề nghị trị tội nặng.

Nhà thờ ba gian, hướng Nam, cột đấu vuông, đều bằng gỗ lim.
Nhưng sự nghiệp khiến Nguyễn Công Trứ lưu danh sử sách muôn đời chính là công cuộc khai hoang. Là Dinh điền sứ, ông xin nhà nước cấp tiền gạo cho dân nghèo để khai phá đất hoang. Tại các vùng bãi bồi ven biển như Ninh Bình, Thái Bình, Hải Dương, Quảng Yên..., ông đích thân chỉ đạo việc đo đạc, dẫn dân khai hoang, xây dựng nên hai huyện mới: Kim Sơn và Tiền Hải.
Những vùng đất ấy từ hoang vu trở thành nơi trù phú, sinh kế cho hàng vạn người. Nhân dân biết ơn ông sâu sắc, nhiều nơi lập đền thờ ông khi ông còn sống. Ở Đông Quách (Thái Bình cũ), người dân khắc câu đối để tưởng nhớ công lao:
“Đặc địa sinh từ, Đông Ấp nhất bách niên kỷ niệm,
Kình thiên trụ thạch, Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao”.
Đáng quý hơn cả là sự chính trực và thanh liêm của ông. Làm quan nhưng không màng lợi lộc, từng từ chối nhận hối lộ, thẳng tay bắt giải kẻ hối lộ cùng tang vật để nghiêm trị. Tiền gạo thừa khi làm Dinh điền sứ, ông không tư túi mà nộp lại cho công khố. Ở tuổi 80, khi Pháp đánh Đà Nẵng năm 1858, dù đã nghỉ hưu, ông vẫn dâng sớ xin ra trận: “Còn chút hơi thở nào, xin lên đường ngay”.
Ông mất ngày 14/11/1858, thọ 81 tuổi. Trọn đời ông là một khúc tráng ca cho lý tưởng “vì dân vì nước”:
“Một mình để vì dân vì nước,
Túi kinh luân, từ trước để nghìn sau...”.
Mộ phần Uy Viễn tướng công - Dấu ấn bất tử giữa trời đất
Ngày nay, đến xã Nghi Xuân (Hà Tĩnh), du khách có thể tìm về quần thể di tích tưởng niệm Nguyễn Công Trứ - một không gian linh thiêng, tôn kính dành cho bậc danh nhân hiếm có trong lịch sử dân tộc. Quần thể này gồm khu mộ và khu nhà thờ, xây dựng trên khu đất hơn 5.000m2, tọa lạc giữa đồng xanh, núi non trùng điệp.
Mộ phần của ông đặt tại thôn Lam Thủy (xã Nghi Xuân), có diện tích khoảng 3.000m2, được con cháu dòng họ cùng nhân dân Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình, nay là Hưng Yên) dựng nên vào năm 1868, mười năm sau ngày ông mất.

Nhà bia bên phải nhà thờ, bốn mặt bia ghi tiểu sử, công trạng bằng tiếng Việt - Anh - Pháp - Hoa.
Mộ xây bằng đá, hình chữ nhật, đầu hướng Bắc, dài 2,2m, rộng 1,1m, phía trên vát kiểu mái nhà. Xung quanh còn có mộ cha mẹ, con cháu - tạo thành không gian tưởng niệm khép kín, trang nghiêm.
Cách khu mộ khoảng 400m là nhà thờ lưu niệm Nguyễn Công Trứ, diện tích khoảng 2.000m2, nằm bên tỉnh lộ 22. Công trình được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1991.
Nhà thờ gồm ba gian, kiến trúc truyền thống, cột gỗ lim, mái ngói vây, phía trước khắc câu đối Hán Nôm tôn vinh công đức Uy Viễn tướng công. Bên phải là nhà bia ghi tiểu sử, công trạng bằng bốn thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp, Hoa.
Đặc biệt, trong khuôn viên còn có nhà hát ca trù – nơi tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa, biểu diễn nghệ thuật truyền thống. Nguyễn Công Trứ được xem là người có công lớn trong việc phát triển thể thơ hát nói, để lại nhiều tác phẩm như Chí làm trai, Yêu hoa, Duyên gặp gỡ, Một ngày nên nghĩa... Ông được mệnh danh “ông hoàng hát nói”, danh xưng hiếm hoi dành cho nhà thơ gắn bó sâu sắc với nghệ thuật ca trù.
Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nổi bật nhất có lẽ là Bài ca ngất ngưởng – áng thơ bất hủ, khắc họa hình tượng Nguyễn Công Trứ tự do, ngang tàng, vượt khỏi khuôn phép lễ nghi nhưng vẫn đầy bản lĩnh:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng...”.
Hàng năm, xã Nghi Xuân tổ chức lễ tưởng niệm Nguyễn Công Trứ tại khu di tích, thu hút hàng nghìn lượt khách thập phương đến dâng hương, tìm hiểu lịch sử, văn hóa. Dù trải qua thời gian và biến thiên lịch sử, khu di tích vẫn giữ được nét trang trọng, linh thiêng.
Chính quyền địa phương cho biết đang lên kế hoạch mở rộng, nâng cấp quần thể để xứng đáng hơn với tầm vóc và di sản của một con người mà “trời đất cho một cái tài, giắt lưng dành để tháng ngày chơi”.
Trong gia tài sáng tác gồm 63 bài hát nói còn lưu, nhiều bài được các câu lạc bộ ca trù biểu diễn phổ biến. Nổi bật nhất là: Chí làm trai, Vịnh Tỳ bà hành, Bài ca ngất ngưởng, Yêu hoa, Sầu tình, Duyên gặp gỡ, Một ngày nên nghĩa…











