Nguyễn Xuân Hùng: Mượn tứ ca dao để khắc họa nết đất, nết người
Nhà thơ - nhà báo Nguyễn Xuân Hùng, sinh năm 1965 ở Yên Lạc (Vĩnh Phúc), anh từng trải qua quân ngũ, có thời gian làm Công an xã trước khi làm báo. Anh vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam cuối năm 2024.
Các tác phẩm anh đã xuất bản gồm: "Viết lúc nửa đêm" (NXB Văn học, 2002), "Mưa qua tôi" (NXB Hội Nhà văn, 2004), "Trở lại cánh đồng" (NXB Hội nhà văn, 2015) và "Mượn tứ ca dao" (NXB Hội Nhà văn, 2024) anh từng đoạt giải thưởng Văn học Nghệ thuật của tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm 2002-2007 tập thơ “Mưa qua tôi”.
Trong tập "Mượn tứ ca dao" xuất bản hồi tháng 10 năm 2024 với 60 bài thơ lục bát, nhà thơ Nguyễn Xuân Hùng đã cho người đọc thấy một ngòi bút thơ giàu cảm xúc, giàu sáng tạo của một tâm hồn nhiều chiêm nghiệm, suy tư. Nổi bật lên trong đó là nỗi nhớ da diết về mẹ, về quê hương, xứ sở, về tình người ăm ắp yêu thương và tình yêu non sông, đất nước khôn cùng.

Tác giả Nguyễn Xuân Hùng.
Ngay từ tựa đề của tập thơ, người đọc dễ dàng nhận ra tâm tư, tình cảm và phong cách của tác giả cũng như linh hồn của các bài thơ anh gửi vào trong đó. Bởi lẽ, ca dao là lời thơ trữ tình dân gian, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người. Với đặc điểm nghệ thuật là lời thơ ngắn gọn, sử dụng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể, ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ, lối diễn đạt bằng một số hình thức mang đậm sắc thái dân gian.
“Mượn tứ ca dao” là mượn phong cách, tinh thần, hồn cốt của ca dao để người viết sắp xếp và tổ chức các ý tưởng, hình ảnh và cảm xúc trong tác phẩm của mình một cách gần gũi với cuộc sống để người đọc dễ cảm, dễ thấm và dễ ghi nhớ sâu sắc hơn ý nghĩa của ngôn từ.
Ấn tượng đầu tiên khi đọc "Mượn tứ ca dao" là những cảm xúc về mẹ của tác giả với tất cả yêu thương, gần gũi và lòng biết ơn vô hạn. Anh hồi tưởng về người với bóng dáng tảo tần lam lũ, dãi nắng dầm mưa quanh năm trên đồng sâu ruộng cạn, hồi tưởng về những ân cần chăm sóc sớm hôm, về những kỉ vật thân thương gắn liền với cuộc đời của mẹ để rồi nỗi nhớ niềm thương như siết chặt cõi lòng. Trong tột cùng cảm xúc ấy, tác giả đã viết nên những câu thơ như nốt lặng của tâm hồn:
Lặng nhìn mây trắng thiên di
Cánh đồng nâng mẹ ta đi lên trời;
(Con về tìm bóng mẹ xưa)
Hay:
Giữa bao cái mất cái còn
Rưng rưng bóng mẹ sớm hôm tảo tần
(Về quê)
Thương nhớ mẹ rồi dâng lên cảm giác hụt hẫng, lạc lõng, bơ vơ của bản thân giữa cuộc đời khi vắng mẹ:
Mẹ về thế giới người hiền
Con mồ côi giữa một miền quê hương
(Giàn trầu của mẹ)
Bao nhiêu chờ đợi trên đời
Bỗng dưng con hiểu khi ngồi ...Nghĩa trang
(Bên mộ mẹ)
Và rồi sau tất cả buồn vui, gian khó cuộc đời, anh càng hiểu, càng thấm hơn ơn nghĩa sinh thành, dưỡng nuôi của mẹ, để rồi tự nhắc mình, nhắc người bài học đạo làm con.
Trước nhân gian xin cúi đầu
Ta còn mắc nợ dãi dầu mẹ cha
(Nhặt lại thời gian)
Hãy về thương lấy mẹ cha
Đường đời thì ngắn, đường xa thì còn
(Mượn tứ ca dao)

Tập thơ của tác giả Nguyễn Xuân Hùng gồm 60 bài thơ lục bát.
Mặc dù đã lên phố công tác, mấy chục năm xa quê nhưng lòng anh lúc nào cũng hướng về quê với những khốn khó mà người đối với người nhân hậu. Có thể nói sau cảm xúc về mẹ là cảm xúc về quê hương, xứ sở. Làng là nơi chôn nhau, cắt rốn, nơi chất chứa bao kí ức tuổi thơ đẹp đẽ của mỗi người.
Với nhà thơ cũng thế. Anh luôn mang trong mình hoài niệm về cây đa, giếng nước, sân đình, về con đường nơi tuổi thơ anh cùng đám bạn nô đùa, chạy nhảy, hoài niệm về cánh đồng, phiên chợ nơi mẹ dãi dầu, bươn bả mưu sinh và thiết tha hơn là tình người ấm áp. Còn mãi những thân yêu gọi ta về, những chiều quê ắp đầy kỷ niệm, những hội làng vui hát giao duyên và biết bao ký ức thân thương về rạ rơm, bờ ao, bụi chuối mỗi khi anh được trở về quê hương yêu dấu:
Đồng làng gặt lúa vừa xong
Còn vương rơm rạ thơm nồng lối đi
(Những thân yêu gọi ta về)
Hay là:
Hội làng em hát đắm say
Câu ca, chốn cũ còn đây...hỡi người!
(Ghi ở hội làng)
Dẫu rằng theo thời gian nhiều thứ đã đổi thay làm anh thảng thốt kiếm tìm nhưng không còn thấy nữa thì may thay điều thiêng liêng nhất là tình nghĩa giữa con người với nhau vẫn còn vẹn nguyên như bao đời vẫn thế:
Vẫn đầy tình nghĩa xóm giềng
Mỗi khi hiếu, hỉ, gạo tiền đỡ nhau.
(Làng)
Bức tranh làng quê nơi miền trung du Bắc Bộ qua ngòi bút của anh được tái hiện thật tỉ mỉ, thật bản sắc làm cho bất cứ ai khi rời xa quê đọc được những câu thơ ấy đều mang mang nỗi nhớ. Đó là nhờ tình yêu quê hương vô hạn trong trái tim người thơ Nguyễn Xuân Hùng.
Không chỉ yêu nơi mình sinh ra mà khi đặt chân đến bất cứ đâu nhà thơ cũng dạt dào cảm xúc. Anh thả hồn mình vào non xanh, nước biếc để cảm nhận vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên khi đến Thiên Cầm (Hà Tĩnh), Tam Đảo, Tây Thiên, Sông Hương, Nghi Xuân, Đồng Quế...
Để rồi như tức cảnh, sinh tình, anh trút cạn tâm tư, tình cảm của lòng mình với nơi anh đến. Đó là nét văn hóa của người bản xứ (Đêm cao nguyên trắng Bắc Hà), là câu ca, điệu hò, khúc nhạc (Lần đầu đến với Sông Hương), là danh nhân kiệt xuất lưu đời với áng thơ bất hủ (Viết ở Nghi Xuân). Đó là chốn linh thiêng ghi dấu chiến tích oanh liệt và công ơn của những người chiến sĩ nhà báo Hoàng Lộc (Viết ở Đồng Quế)...
Tất cả những địa danh đều gắn liền với một dấu ấn riêng biệt khiến trái tim đa cảm Nguyễn Xuân Hùng ngân rung lên biết bao cung bậc cảm xúc sâu lắng, thiết tha. Ở đâu anh cũng mến yêu và lưu vào kí ức như khoảng trời quê để nhớ suốt cuộc đời.
Còn rất nhiều đề tài khác trong "Mượn tứ ca dao" như tình yêu tuổi trẻ, người lính, những người vợ, người chị chốn quê, tự vấn... Đề tài nào cũng được anh khai thác kĩ lưỡng, tìm ra những nét đẹp, những chi tiết hay và thổi vào đó nghĩa tình đậm sâu, chất chứa khiến người đọc rưng rưng, xao xuyến trong lòng.
Gấp trang sách lại, ta vẫn còn thấy như phất phơ trước mắt bức tranh sống động về người mẹ, về những miền quê yêu dấu với nhịp điệu du dương trầm bổng, thấy đôi mắt rưng rưng bởi nỗi lòng thao thiết nhớ thương của một con người nặng sâu ân nghĩa. Nhà thơ đã kế thừa và phát huy triệt để cả hình thức, nội dung và hồn cốt của ca dao, để sáng tạo thành công những thi phẩm của riêng mình, vừa ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha, vừa dễ chạm vào tâm hồn độc giả.
Đâu đó có thể còn một vài hạt sạn như gieo vần chưa khớp, câu thơ chưa mượt, một vài từ ngữ chưa giàu chất thơ nhưng tôi nghĩ đó là điều không tránh khỏi với bất kì ai khi in ấn cả một tập sách dày. Vì thế, “Mượn tứ ca dao” vẫn toát lên giá trị của một món ăn tinh thần vừa thấm, vừa hay.