Nhà thơ Hoàng Việt Hằng: 'Một mình khâu những lặng im'

Nhiều năm trước, trong những kỳ cuộc của Hội Nhà văn Việt Nam, có một nữ nhà văn luôn xuất hiện ấn tượng với mái tóc tém cá tính, thân hình cao lớn, dáng đi nhanh nhẹn, và đặc biệt là đôi mắt - đôi mắt như không giấu được rằng đây hẳn là một người viết văn, làm thơ.

Người phụ nữ ấy là nhà thơ Hoàng Việt Hằng.

Nhà thơ Hoàng Việt Hằng.

Nhà thơ Hoàng Việt Hằng.

Viết cần mẫn như người thợ dệt vải

Sinh năm 1953 tại làng Vân Hồ (Hà Nội), Hoàng Việt Hằng bắt đầu làm thơ từ năm 12 - 13 tuổi. Là con một trong gia đình, bà sớm tìm đến những trang viết như một cách chia sẻ tâm sự tuổi hoa niên. Những bài thơ đầu đời được bà nắn nót chép tay trên những tờ giấy học trò ố màu - người bạn thầm lặng của bà suốt thời thiếu nữ. Rồi cuộc sống rẽ lối. Bà trở thành công nhân của Tổng Công ty Xây dựng số 1.

Dù làm việc trong môi trường khô khan nhưng những trang viết vẫn là nơi bà nương tựa tinh thần. Được công ty tạo điều kiện cử đi học Đại học Văn hóa Hà Nội, sau khi tốt nghiệp, bà trở lại đơn vị và gắn bó suốt 19 năm với công tác tuyên truyền, khen thưởng.

Bước ngoặt đến vào năm 1974, khi bà theo học lớp Bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bá. Từ đó, Hoàng Việt Hằng chuyên tâm hơn với văn chương. Năm 1980, tập truyện ngắn “Những lời chưa nói hết” của bà đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội như sự ghi nhận đầu tiên cho một ngòi bút âm thầm nhưng giàu nội lực.

Gắn bó và xây dựng tổ ấm cùng nhà văn Triệu Bôn, Hoàng Việt Hằng dần rút lui về làm nội trợ, chăm sóc chồng con. Chồng của bà, nhà văn Triệu Bôn, sau khi từ chiến trường Đường 9 - Khe Sanh và mặt trận B2 trở về Hà Nội và công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội vẫn mang trong mình nhiều vết thương, đau yếu luôn, có thời kỳ bị liệt nửa người. Trong âm thầm và bền bỉ, bà vừa lo toan gia đình, vừa học thêm báo chí, rồi bắt đầu bước vào con đường làm báo từ năm 1993.

Trở thành phóng viên báo Du lịch, Hoàng Việt Hằng có cơ hội đi khắp mọi miền đất nước, rồi tham dự các liên hoan thơ quốc tế, đặt chân tới nhiều nước trên thế giới. Từ một người phụ nữ quanh quẩn với gian bếp, bà dần trở thành người ưa xê dịch - lên rừng xuống biển, vượt qua nhiều biên giới. Và càng đi, bà càng thấm thía một điều giản dị, không nơi đâu đẹp bằng đất nước Việt Nam.

Vừa đi, vừa đọc, vừa viết - đó là hành trình song hành trong đời Hoàng Việt Hằng. Bà khắc ghi lời dặn của nhà văn Tô Hoài: “Hãy viết cần mẫn như người thợ dệt vải. Ngày nào cũng ngồi bên khung cửi thì mình sẽ dệt đẹp và sẽ có được những vuông vải đẹp”. Ngay cả những ngày ốm, sốt, khi chưa có máy tính, bà vẫn cố viết ít nhất một trang A4 mỗi ngày. “Tôi nghĩ lao động văn chương là phải nghiêm túc và cần mẫn, phải có trách nhiệm, viết kỹ, viết sâu” - bà từng nói như thế.

Trên hành trình sáng tác, Hoàng Việt Hằng chứng kiến nhiều phận người đơn lẻ, thua thiệt - nhất là nơi rẻo cao, vùng biển. Chính họ, bằng nỗi cơ cực mà kiên cường, đã truyền cảm hứng để bà vượt qua những biến cố trong cuộc sống. Năm 1981, khi tới mũi Cà Mau, nghe lời tâm sự của một ngư dân, bà viết bài thơ “Ở doi đất cuối trời” - một bài thơ sâu lắng về miền đất tận cùng Tổ quốc: “Những con thuyền trôi xuôi/ Tiếng tù và vẫn thổi/ Ở doi đất cuối trời/ Triền rừng xanh màu đước... Giá tay tôi ôm được/ Mũi đất ấy vào lòng...”.

Thơ của bà không chỉ để sẻ chia, mà đôi khi còn nâng đỡ một đời người. Có lần, giữa đêm khuya, bà nhận cuộc điện thoại từ một người phụ nữ xa lạ. Chị nức nở, nói đã xin mãi mới được số điện thoại của tác giả bài thơ “Một mình khâu những lặng im”. Chị nói nhờ bài thơ ấy mà có thêm nghị lực sống trong lúc tưởng chừng đã tuyệt vọng. Bài thơ đó, Hoàng Việt Hằng viết năm 2003 - sau khi chồng bà, nhà thơ Triệu Bôn, mới qua đời.

Bài thơ lục bát ấy là lời tự sự sâu lắng, xót xa: “Một mình khâu những lặng im/ Áo không vá cũng không kim chỉ điều/ Em khâu lá rụng như thêu/ Khâu cay đắng với trớ trêu mỉm cười...”... “Một mai trăng sáng thong dong/ Mình em khâu những mùa đông đời mình”.

Với bà, thơ ca không làm ra tiền bạc, không phải vàng hay kim cương, nhưng có thể lay động những trái tim đang khổ đau, khiến họ thấy cuộc đời vẫn đáng sống. Bà vẫn nhớ mãi một câu thơ của Lưu Quang Vũ: “Như tia nắng, chúng mình không còn mãi/ Những câu thơ chắc gì ai đọc lại”. Sau bao năm cầm bút, sống chết với văn chương, điều duy nhất bà mong là có một đôi câu thơ neo lại trong lòng người đọc.

Thơ chắt lọc từ những nỗi đời

Năm 2019, ở tuổi 66, nhà thơ Hoàng Việt Hằng ra mắt tập thơ “Em đã đốt thơ tình anh tặng”. Tên tập sách cũng là nhan đề một bài thơ trong đó, mở đầu bằng những câu đầy tiếc nuối: “Thế là em đã đốt hết thơ tình/ anh tặng em tuổi hai mươi trăng vỡ/ những vần thơ nhìn tàn tro nín thở/ thuộc đôi dòng lục bát giấu ngăn tim...”.

Bà lý giải: “Hồi trẻ tôi cũng có nhiều bạn. Đã có những người viết thơ tặng tôi. Chồng tôi cũng là nhà văn và cũng làm thơ. Tôi thầm nghĩ rằng để giữ hạnh phúc cho mình, cho tổ ấm của mình thì tốt nhất là đốt những bài thơ được tặng kia đi, không giữ lại gì cả. Với tôi, bao giờ gia đình cũng là trên hết. Tôi đã ngừng viết tới 17 năm để chăm lo cho chồng con. Nhưng rồi số phận run rủi khiến tôi lại cầm bút. Và tôi ghi lại những kỷ niệm về những bức thư thuở nào. Qua bài thơ này, tôi muốn nói với các bạn trẻ rằng sự độ lượng rất cần thiết trong tình yêu, bởi ai cũng có thể có những phút giây ngoài chồng, ngoài vợ. Cái gì đã thuộc về quá khứ thì hãy xếp lại. Quan trọng là vợ chồng vẫn thuộc về nhau, vẫn hiểu nhau”.

Khi trái tim người viết đã được thời gian chưng cất bằng tình yêu và lòng trắc ẩn, tuổi tác không còn là lực cản sáng tạo, càng không làm cho những vần thơ trở nên già cỗi. Ở tuổi xế chiều, Hoàng Việt Hằng vẫn viết về tình yêu, về những chuyến đi, về thân phận con người bằng cảm xúc dạt dào và bút pháp mới mẻ. Giọng thơ của bà ngày càng nhẹ nhàng, đằm thắm, giàu chiêm nghiệm, chắt lọc từ những nỗi đời từng trải.

Đặc biệt, tình yêu và thân phận là chủ đề xuyên suốt trong thơ Hoàng Việt Hằng. Đọc thơ bà, người ta cảm nhận rõ những suy tư trắc ẩn, những uẩn khúc đời riêng, đôi khi đầy nước mắt. Một trong những bài thơ ấn tượng nhất là “Lý do một bông sen gục đầu” với sự độc đáo cả về nội dung lẫn hình thức.

Bà kể, bà rất thích nghe những bản nhạc buồn do nghệ sĩ violin Anh Tú chơi. Chính giai điệu ấy đã dẫn cảm xúc bà trong khi viết bài thơ. Từ hình ảnh hai họa sĩ - một người đàn ông vẽ sen với nỗi buồn góa bụa, một nữ họa sĩ tên Kim Bạch chuyên vẽ những bông sen tàn ám ảnh - Hoàng Việt Hằng đã chưng cất thành những câu thơ lay động: “có hai bông sen mới nở/ một bông sen gục cúi đầu/ hình như một bông sen khóc/ ngực sen nàng ấy giấu vào/ chẳng nhìn thấy màu nước mắt/ sen tàn rơi xuống bùn nâu/ cái màu, cái màu sen ấy/ phớt hồng tươi tắn bao lâu?/ đủ ngát lên đời hương ấy/ đầm mình trong nước bùn sâu/ chỉ một bông sen gục đầu/ hình như một bông sen khóc/ người trong hoa tàn đã mất/ bóng người có đọng trong sen/ giấy dó thuốc màu biết cả/ anh dùng nước mắt vẽ em”...

Năm 2023, với sự đồng hành của Hội Nhà văn Việt Nam, Hoàng Việt Hằng cho ra mắt một tập thơ tuyển - chọn lọc 153 bài trong hàng nghìn bài đã viết, kết tinh từ một hành trình lao động bền bỉ, tâm huyết. Tập sách dày gần 300 trang - là dấu mốc đáng nhớ trong sự nghiệp sáng tác hơn nửa thế kỷ của bà.

Dễ đến năm năm sau, trong khuôn khổ Ngày Thơ Việt Nam 2025, người ta gặp lại Hoàng Việt Hằng tại một buổi tọa đàm. Dáng bà gầy hơn, giọng nói chậm rãi hơn. Bà chia sẻ sức khỏe không còn tốt, nhưng vẫn cố gắng viết đều tay, thậm chí đang ấp ủ ra mắt một tiểu thuyết. Thời gian không chờ ai, nhưng trong ánh mắt bà vẫn ánh lên một tình yêu thiết tha với văn chương - như thể nơi ấy là phần không thể thiếu trong đời sống của một người đàn bà từng trải, từng yêu, từng khóc, từng lặng lẽ khâu “mùa đông đời mình” bằng những vần thơ.

Nhà thơ Hoàng Việt Hằng quê làng Vân Hồ, Hà Nội, là Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Bà đã in 9 tập thơ, 13 tập văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn) và được tặng các giải thưởng văn học của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam.

Võ Hà

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/nha-tho-hoang-viet-hang-mot-minh-khau-nhung-lang-im-705645.html