Nhà thơ, nhạc sỹ Thụy Kha: Chất lính ngang tàng trong di sản nghệ thuật đồ sộ

Nhà thơ, nhạc sỹ, nhà nghiên cứu Nguyễn Thụy Kha ra đi, để lại khoảng trống mênh mông trong lòng bạn bè, công chúng và nền văn học nghệ thuật Việt Nam đương đại.

“Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ/ Rơi cơn mưa ban trưa/ Chợt thấy mình tách làm hai nửa/ Nửa ướt bây giờ nửa ướt xa xưa.” Những câu thơ trong bài “Không đề” của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha từng được rất nhiều thế hệ thuộc nằm lòng, là tác phẩm “phổ thông” nhất đối với độc giả yêu thơ.

Song, ông không chỉ có thơ tình mà còn xuất bản nhiều tập thơ đề tài chiến tranh và không chỉ là một tác gia lớn ở địa hạt văn chương, ông sở hữu một gia tài đồ sộ các tác phẩm âm nhạc, điện ảnh, phê bình lý luận.

Ông rời cõi tạm trong lúc vẫn đang ấp ủ nhiều dự định, để lại một khoảng trống lớn trong văn học nghệ thuật nước nhà.

Day dứt với 'Thời máu xanh'

Nhà thơ, nhạc sỹ, nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha qua đời ngày 13/3 tại Hà Nội, sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư. Biết tin dữ, họa sỹ Lê Thiết Cương, một người bạn thân thiết của nhà thơ, không giấu được sự đau buồn.

 Nhạc sỹ Thụy Kha cùng thi sỹ Hoàng Cầm. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

Nhạc sỹ Thụy Kha cùng thi sỹ Hoàng Cầm. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

Họa sỹ khẳng định Nguyễn Thụy Kha là tên tuổi lớn trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật, từ thơ ca đến âm nhạc và nghiên cứu. Nhưng nổi bật nhất, đạt nhiều thành tựu nhất chính là thơ và nghiên cứu tân nhạc Việt Nam.

Theo họa sỹ Lê Thiết Cương, tập thơ thành công nhất của Nguyễn Thụy Kha “Thời máu xanh” viết về thời bộ đội chống Mỹ của mình và đồng đội.

“Thơ ca chống Mỹ không thể không có Nguyễn Thụy Kha vì những cách tân trong thi ca của tập thơ 'Thời máu xanh' là rất lớn, rất ấn tượng,” họa sỹ Lê Thiết Cương nói.

Nhà thơ Đoàn Ngọc Thu, người em thân thiết suốt 40 năm của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đồng tình với quan điểm này và khẳng định những vần thơ về người lính, về một “Thời máu xanh” là một trong những tác phẩm hay nhất, ám ảnh nhất về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước không chỉ với những người cùng thời mà với nhiều thế hệ, cả những người sinh ra trong hòa bình.

“Anh có 10 năm trong quân ngũ, là một người lính thực sự ở nhiều mặt trận ác liệt như Quảng Trị, Khu 5 và Tây Nguyên, từng đổ máu nơi chiến trường khắc nghiệt nên những gì anh viết rất khác, không phải là những tác phẩm tuyên truyền về cuộc chiến mà là những trải nghiệm, day dứt của cá nhân anh,” nhà thơ Đoàn Ngọc Thu chia sẻ.

Nhà thơ Đoàn Ngọc Thu tự nhận là trí nhớ kém, đến thơ của bản thân cũng ít thuộc nhưng lại nhớ tương đối thơ Nguyễn Thụy Kha, không phải mảng thơ tình mà chính những vần thơ viết về lính: “Giật cửa tận đền đài/ Chiến tranh/ Lôi con người ra ngoài yên tĩnh/ Một thế hệ chợt rùng mình/ Thành lính/ Một thế hệ xuyên Trường Sơn/ Mòn đường 559/ Những đường mòn dấu chân hằn lên trán/ Bỗng một ngày.../ Đại lộ Hồ Chí Minh/ Một thế hệ hiến dâng trọn vẹn, hiến dâng/ Vô danh/ Cắn chặt răng không khóc/ Cháy thành lửa, tắt thành vuông cỏ mọc/ Chín muộn như không thể chín tự nhiên/ Những năm/ Những người lính/ Những giọt máu xanh/ Chảy lặng lẽ trên thân hình bán đảo...” (“Máu xanh”).

 Nhà thơ Anh Ngọc và bài thơ tặng đồng đội Thụy Kha. (Ảnh: NVCC)

Nhà thơ Anh Ngọc và bài thơ tặng đồng đội Thụy Kha. (Ảnh: NVCC)

Nhà thơ Anh Ngọc (Nguyễn Đức Ngọc) vừa là đồng nghiệp, vừa là đồng đội cùng chiến đấu nên có khá nhiều kỷ niệm với nhà thơ Thụy Kha. Họ nhập ngũ cùng một ngày 6/9/1971, sau đợt huấn luyện lại cùng được phân công về làm lính của Trung Đoàn 132, Binh chủng Thông tin liên lạc. Suốt năm 1972, họ đều có mặt ở chiến trường Quảng Trị.

Nhà thơ Anh Ngọc mãi nhớ đến nhà thơ Thụy Kha như một người bạn chí tình, hết lòng vì bạn bè, sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo cho đồng đội nơi chiến trường. Ông đã viết bài thơ “Đêm” để tặng nhà thơ Thụy Kha: “Đêm Tây Nguyên buông chùng tay áo/ Giọt mưa rừng tóc xõa gió Pleiku/ Ngỡ đám mây chiếu choàng lên vai lạnh/ Hóa mảnh vải dù hơi ấm bạn nhường cho.”

Cơ đồ văn chương còn dang dở...

Tác giả Nguyễn Thụy Kha không chỉ có thơ mà còn có một di sản đồ sộ các tác phẩm ở nhiều lĩnh vực khác như văn chương, âm nhạc, lý luận phê bình. Nhà thơ Đoàn Ngọc Thu khẳng định rằng ông có sức sáng tạo khủng khiếp, một cá tính nghệ thuật ngang tàng đúng chất người “đất cảng” Hải Phòng.

 Nhà thơ Thụy Kha và nhà thơ Đoàn Ngọc Thu trong buổi ra mắt hai tập thơ của nhà thơ Đoàn Ngọc Thu. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Nhà thơ Thụy Kha và nhà thơ Đoàn Ngọc Thu trong buổi ra mắt hai tập thơ của nhà thơ Đoàn Ngọc Thu. (Ảnh: PV/Vietnam+)

“Kha đã in hơn 20 tập thơ, cũng chừng ấy tác phẩm văn xuôi, một số tác phẩm âm nhạc, chưa kể những bài báo. Anh viết hàng triệu trang sách bằng cách viết tay, chứ không nhờ người khác chắp bút hay đánh máy thay vì muốn tự mình tạo ra những con chữ. Anh có một kho tri thức khổng lồ trong đầu mà chúng tôi vẫn đùa là không khác gì Google dù anh chẳng hề dùng mạng xã hội hay điện thoại thông minh,” nhà thơ Đoàn Ngọc Thu chia sẻ.

Với họa sỹ Lê Thiết Cương, ông đánh giá cao Nguyễn Thụy Kha ở những đóng góp trong nghiên cứu lịch sử tân nhạc Việt Nam, đã viết cả loạt sách khắc họa chân dung các nhạc sỹ: Văn Cao, Hoàng Việt, Nguyễn Thiện Đạo, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Huy Du, Nguyễn Xuân Khoát.

Cái hấp dẫn trong những cuốn sách này là Nguyễn Thụy Kha không chỉ viết bằng những nghiên cứu tỉ mỉ mà còn là từ hồi ức của một người bạn, một người đồng hành với các nhạc sỹ ấy.

 Họa sỹ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha và ca sỹ Ngọc Châm tuy khác biệt về thế hệ nhưng rất thân thiết trong hoạt động nghệ thuật. (Ảnh: FB)

Họa sỹ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha và ca sỹ Ngọc Châm tuy khác biệt về thế hệ nhưng rất thân thiết trong hoạt động nghệ thuật. (Ảnh: FB)

Chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, nhà văn Thái Chí Thanh, Hội Nhà văn Việt Nam cũng khẳng định Thụy Kha là một nghệ sỹ đa tài.

Ông còn nhớ một kỷ niệm khi đang công tác tại Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan. Năm 2004, với sự tài trợ của một Mạnh Thường Quân, ông Thanh tổ chức một đoàn nhà thơ Việt Nam sang Ba Lan giao lưu, gồm có nhà thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Trần Cương và Nguyễn Thụy Kha.

“Tôi đưa anh đi khắp nơi, đặc biệt là những nơi có sinh hoạt văn hóa của cộng đồng như quảng trường, sân vận động. Đến đó, anh nhảy và hát bằng tiếng Ba Lan, những bài hát mà đến chính người Ba Lan cũng không còn nhớ nữa. Phải nói rằng Thụy Kha có một trí nhớ và hiểu biết tuyệt vời, giọng hát thì rất hay,” nhà văn Thái Chí Thanh nhớ lại.

 Hai tập thơ tình ra mắt năm 2020 của nhà thơ Thụy Kha.

Hai tập thơ tình ra mắt năm 2020 của nhà thơ Thụy Kha.

Sau này, ông Thanh được nhà thơ Thụy Kha rủ về huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng và khuyến khích viết nhạc về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông Thanh ngạc nhiên nói: “Em có biết viết nhạc đâu” nhưng ông Kha thì khẳng định: “Em đã có nhạc trong người, anh sẽ dạy em về nhạc lý.”

“Thế là anh bỏ ra đúng 10 ngày để dạy tôi thật nghiêm túc, không rượu, không trà, chỉ có âm nhạc và một thày một trò. Những kiến thức của anh truyền đạt hết sức cô đọng và dễ nhớ, dẫn đường cho tôi đến với âm nhạc. Sau đó vài năm thì chính anh là người viết tựa cho tôi tập ca khúc thiếu nhi ‘Hạt sương ban mai’ do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành,” ông Thanh kể.

Nhà văn Thái Chí Thanh khẳng định rằng Thụy Kha là người nghệ sỹ tài hoa được cả nước biết đến. Ông ra đi để lại một cơ đồ văn chương còn nhiều dang dở. Với cá nhân ông Thanh, mất đi người anh, người bạn lớn là một sự hụt hẫng mênh mông không có gì bù đắp được.

Đại diện cho lớp “hậu bối,” nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Quang Long khẳng định Thụy Kha một tên tuổi uy tín của âm nhạc Việt Nam trong lĩnh vực lý luận, phê bình và báo chí âm nhạc. Ông như một nhà sử học về âm nhạc nói chung, nhạc tiền chiến, cách mạng và nhạc mới Việt Nam (tân nhạc) thế kỷ 20 nói riêng. Ông còn đồng hành, chia sẻ cùng với các nghệ sỹ trẻ trong lĩnh vực âm nhạc và đã có những công trình đáng ghi nhận.

Trong đó, anh Nguyễn Quang Long tâm đắc với cuốn “1.000 ca khúc Thăng Long Hà Nội.” Cuốn sách gần 2.000 trang như một bức tranh toàn cảnh về Hà Nội qua các giai đoạn lịch sử, được thể hiện bằng âm nhạc.

Nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha ra đi, để lại một khoảng trống lớn trong lòng bạn bè, công chúng và nền văn học nghệ thuật Việt Nam.

Lễ viếng nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha sẽ diễn ra vào 11h30 ngày 17/3 tại Nhà tang lễ Quốc gia, 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội./.

 Nhà thơ Thụy Kha có kiến thức rộng lớn về âm nhạc. (Ảnh: Bùi Quang Thanh)

Nhà thơ Thụy Kha có kiến thức rộng lớn về âm nhạc. (Ảnh: Bùi Quang Thanh)

Dấu ấn sự nghiệp của nhà thơ-nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha (1949-2025)

I/ Các tập thơ:

1. Tiếng chim phía trước (Nhà xuất bản Quân đội - 1982)

2. Thành phố Sóng nhà (Nhà xuất bản Hà Nội - 1982)

3. Những giọt mưa đồng hành (Nhà xuất bản Tác phẩm mới - 1987)

4. Mắt thời gian (Nhà xuất bản Thanh niên - 1988)

5. Lúc ấy, biển (Nhà xuất bản Nghĩa Bình - 1989)

6. Không mùa (Nhà xuất bản Văn học - 1994)

7. Mẹ cửa biển (Nhà xuất bản Hải Phòng - 1998)

8. Lửa trắng và ớt xanh (Nhà xuất bản Tác phẩm mới - 1998)

9. Thời máu xanh (Nhà xuất bản Tác phẩm mới - 1999) – bản dịch tiếng Anh do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành 2017

10. Gió Tây Nguyên (Nhà xuất bản Quân đội - 2000)

11. Năm tháng và chiều cao (Nhà xuất bản Thanh niên - 2000)

12. Càn khôn ngàn tuổi (Nhà xuất bản Tác phẩm mới - 2000)

13. Biệt trăm năm (Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2004)

14. Từ nhà ra phố (Nhà xuất bản Thanh niên - 2004)

15. Thuở binh nhì (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2011)

16. Lúa tím (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2012)

17. Thơ Nguyễn Thụy Kha (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2013)

18. Trường ca ngắn và Kịch thơ (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2014)

19. Hiền (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2015)

20. Nàng (Trường ca – Nhà xuất bản Hội Nhà văn -2018)

21. 5 Trường ca (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2019)

21. Cưng (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2020)

22. Mây (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2020)

II/ Văn xuôi:

1. Văn Cao - Người đi dọc biển (Nhà xuất bản Lao động 1992)

2. Hàn Mặc Tử - Thi sỹ đồng trinh (Nhà xuất bản Đà Nẵng 1994)

3. Một lần thơ trẻ (Nhà xuất bản Đà Nẵng 1995)

4. Nửa thế kỷ Tân nhạc Việt Nam (Nhà xuất bản Đà Nẵng 1998)

5. Đời nghệ sỹ-Tình nghệ sỹ (Nhà xuất bản Phụ nữ 1999)

6. Bóng thế kỷ (Nhà xuất bản Đà Nẵng 2002)

7. Nguyễn Thiện Đạo - Nhạc sỹ bị giời đày (Nhà xuất bản Đà Nẵng 2003)

8. Nhạc sỹ Phạm Tuyên (Nhà xuất bản Kim Đồng 2009)

9. Những bậc tài danh thế kỷ (Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn 2014)

10. Thôi ta còn bạn bè (Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2015)

11. Nguyễn Xuân Khoát (Nhà xuất bản Văn học 2017)

12. Lưu Hữu Phước (Nhà xuất bản Văn học 2017)

13. Đỗ Nhuận (Nhà xuất bản Văn học 2017)

14. Huy Du (Nhà xuất bản Văn học 2017)

15. Hoàng Việt (Nhà xuất bản Văn học 2017)

16. Nguyễn Văn Huyên - Bản giao hưởng văn hóa (Nhà xuất bản Văn học 2017)

17. Thuở bình minh Tân nhạc (Nhà xuất bản Văn học 2017)

18. Lời quê góp nhặt (Nhà xuất bản Văn học 2017)

19. Thế kỷ âm nhạc Việt Nam (Nhà xuất bản Văn học 2017)

20. Phạm Duy và tôi (Nhà xuất bản Văn học 2018)

21. Thôi ta còn bạn bè (chân dung văn học – Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2016)

22. Hương (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2022)

Cùng một số giải thưởng văn học.

III/ Âm nhạc

1. Tập ca khúc “Miền Trung riêng tôi” (Nhà xuất bản Đà Nẵng 1998)

2. CD “Miền yêu dấu” (Hồ Gươm Audio 2009)

3. CD “Tình ca cây cầu” (Hồ Gươm Audio 2009)

Ngoài ra còn có hơn 20 giải thưởng âm nhạc.

IV. Điện ảnh

1. Phim chân dung “Nguyễn Bỉnh Khiêm – Cây đại thụ rợp bóng 500 năm” (Bộ Văn hóa Thông tin 1991)

2. Văn Cao (Hội Việt kiều Pháp 1991)

3. “Một người Hà Nội” (HTV 1992)

4. “Hàn Mặc Tử - thi sỹ đồng trinh” (HTV 1992)

5. “Vũ Trọng Phụng – 10 năm và vĩnh cửu” (HTV 1992)

6. Phim hoạt hình “Làm thế nào để thơm như hoa” (Hãng phim hoạt hình 1994)

7. “Phan Tứ - Một bút lực xứ Quảng” (Hội Nhà văn Việt Nam 1995)

8. “Tế Hanh – đi từ một dòng sông” (Hội Nhà văn Việt Nam 1996)

9. “Thày Võ Hồng” (Hội Nhà văn Việt Nam – 1996)

10. “Yến Lan – một bến My Lăng” (Hội Nhà văn Việt Nam 1996)

11. “Trẻ con ở Sơn Mỹ” (Hội Nhà văn Việt Nam 1998)

12. “Vết đạn 50 tuổi” (VTV 2001)

Cùng một số giải thưởng về điện ảnh.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/nha-tho-nhac-sy-thuy-kha-chat-linh-ngang-tang-trong-di-san-nghe-thuat-do-so-post1020543.vnp