Nhà văn Khuất Quang Thụy: Một đời sống nhọc nhằn, một đời văn chói sáng
Ba tuần trước, mấy anh em nhà văn chúng tôi còn kịp lên thăm nhà văn Khuất Quang Thụy ở làng Thanh Phần, xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Nhìn ông hao gầy, ngót hàng chục cân, lòng tôi quặn lại. Không thể tin một ông anh thân thiết cơ thể chắc như cây lim, cây sến, lao động nhà văn như gã lực điền lật bao nhiêu đất gieo hạt trên những cánh đồng chữ nghĩa lại bị thời gian, bệnh tật quật ngã.
Ýđịnh chụp chung với nhà văn Khuất Quang Thụy tấm ảnh kỷ niệm đành gác lại, không còn lòng dạ nào để choàng vai, ghé đầu cười cho bạn văn bấm máy. Chúng tôi chỉ an ủi, động viên ông rồi gợi kỉ niệm xưa tươi đẹp cùng làm biên tập ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, đôi khi câu chuyện vui quên bệnh tật và bật cười, rồi ngay lập tức chùng lại, kìm nén cái sự vui đột xuất, vô tình. Cũng may, dù ông đang bệnh trọng nhưng vẫn tỉnh táo, giọng nói còn khỏe, vang.
Cứ tưởng ông sẽ chống chọi được với bệnh tật ít ra phải 6 tháng, hay 1 năm, hoặc lâu hơn nữa, nhưng ngày 5/3/2025, lúc 16h30 ông đã rời bỏ cõi tạm nhọc nhằn, bay về miền cao xanh mây trắng. Nghe tin ông mất, bạn văn, bạn đọc từ Nam ra Bắc tỏ lòng tiếc thương nhiều vô kể. Phải sống và viết thế nào thì ông mới sống sâu đậm trong lòng mọi người như vậy.

Nhà văn Khuất Quang Thụy.
Nhà văn Khuất Quang Thụy chưa học hết phổ thông trung học, mười bảy tuổi đã tình nguyện nhập ngũ. Năm 1968 vào chiến trường chiến đấu trong đội hình Sư đoàn 320. Ông trải qua các chiến trường Quảng Trị, Nam Lào rồi Tây Nguyên, từ anh lính binh nhì bộ binh đến tiểu đội trưởng trinh sát, vừa cầm súng vừa cầm bút làm thơ, viết văn trở thành nhà văn chiến sĩ.
Nhà văn Khuất Quang Thụy kể với tôi: Không ai tưởng tượng nổi chiến trường Tây sông Pô Cô ác liệt, khó khăn gian khổ mà các đại đội của Sư đoàn 320 (Đại đoàn Đồng bằng) vẫn làm báo tường bằng cách chẻ… cây vầu, viết thơ lên đó, treo lên cho nhau đọc. Hóa ra, khi ông vào chiến trường thì sinh hoạt văn nghệ ở mặt trận đã có sẵn từ thời kháng chiến chống Pháp rồi giữ tiếp cái nề nếp ấy trong khắp các đơn vị toàn quân. Chiến sĩ làm thơ, cán bộ làm thơ, ông cũng làm thơ, thơ động viên vượt qua gian khổ, ngợi ca đời lính đọc cho nhau nghe cho đỡ nhớ nhà chứ mấy ai ước mơ làm nhà văn, nhà thơ.
Một lần ở chốt, trong khoảng lặng của chiến tranh, cậu liên lạc đại đội mò xuống tận hầm của tiểu đội ông, bảo ông lên gặp chính trị viên ngay. Ông phát hoảng, có chuyện gì đây? Hóa ra, trong hầm chính trị viên đang nghe Đài Tiếng nói Việt Nam ngâm bài thơ của ông còn mấy câu cuối. Ông đồ rằng có anh phóng viên mặt trận, hay nhà báo quân đội nào đó xuống đơn vị đọc được bài thơ trên tờ tin sư đoàn và chép lại gửi ra miền Bắc chăng? Ông cũng nhận ra: Thơ văn cũng có ích, tác động tốt với người lính cầm súng. Thế rồi ông chăm chỉ viết, hùng hục viết. Các bài viết nóng hổi ở chiến trường gửi qua các chiến sĩ trở về Bắc qua trạm giao liên.
Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào kết thúc, đơn vị ra Quảng Bình an dưỡng và củng cố, ông được điều về làm tờ tin của Sư đoàn. Các nhà văn, nhà thơ Hồ Khải Đại, Vũ Sắc, Xuân Thiêm, Cao Tiến Lê vào bắc Quảng Trị mở lớp sáng tác kỉ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng đến nói chuyện. Ông được tham dự trại viết này, chưa đầy một tuần ông nộp ký sự "Lửa và thép" trong nỗi hồi hộp, nôn nào chờ ngày trả bài nghe nhận xét. Nhà văn Cao Tiến Lê đọc bản thảo rất hài lòng, gọi ông bảo: "Cậu viết ký sự đầy không khí trận mạc, văn hoạt thế này mà chỉ làm thơ thì hao phí tài năng quá. Viết văn xuôi đi cậu sẽ thành công".
Tháng 11/1971, Tạp chí Văn nghệ Quân đội in ký sự "Lửa và thép" của Khuất Quang Thụy. Sau đó, vào một buổi tối đang loay hoay chuẩn bị bài cho tờ tin số mới, cậu liên lạc chạy huỳnh huỵch đến bảo ông lên ngay gặp chính ủy sư đoàn. Lại giật thót mình. Hóa ra, ông chính ủy sư đoàn cho gọi ông đến nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đang đọc ký sự "Lửa và thép". Lòng nao nao xúc động, ông càng có niềm tin vừa cầm súng vừa viết. Từ hôm đó, ông trở thành nhà thơ của sư đoàn, nhà văn của sư đoàn.

"Đối chiến", một trong những tác phẩm đặc sắc của Khuất Quang Thụy.
Sư đoàn mở trại viết, Khuất Quang Thụy vừa là người tổ chức, vừa là thầy giáo. Ông dạy từ kỹ thuật viết tin, bài báo phản ánh đến ký sự, làm thơ, viết truyện ngắn, viết tấu hài, viết kịch bản chèo, kịch nói. Trong trại viết "thần thánh" ấy có hai trại viên hạt nhân nòng cốt là anh lính sinh viên binh nhì Nguyễn Trọng Luân và Hoàng Dân. Sau mấy chục năm, hai ông Nguyễn Trọng Luân và Hoàng Dân (tác giả của truyện ngắn nổi tiếng "Chiều vô danh" được Giải thưởng Báo Văn Nghệ) trở thành nhà văn bắt đầu từ lớp viết tin, bài và sáng tác của sư đoàn ấy. Hai "học trò" trong một lớp học ở chiến trường xưa bây giờ vẫn nhắc đến ông thầy Khuất Quang Thụy như một niềm tự hào và nể phục, mến thương.
***
Nhà văn Khuất Quang Thụy là một người tốt, lành hiền, chân thành. Mấy chục năm sống cùng cơ quan, làm việc cùng ông chưa bao giờ tôi thấy ông chê bai văn chương của ai. Cũng chưa thấy ông chê ai xấu. Ông sống thân mật gần gũi, đôi khi hồn nhiên đến vụng dại. Vụng dại nhưng lại là người có trách nhiệm với việc mình gây ra. Người ta làm tròn trách nhiệm với một chốn đã bạc mặt, ông tròn vai trách nhiệm với tất cả. Ông chu đáo, tròn vai với gia đình, với những người thân đau đáu, với bạn bè nồng nhiệt, với cơ quan gắn bó mà đôi khi quên cả mình. Các con ông đều thành đạt và vô cùng yêu thương, cảm thông, chia sẻ với bố.
Nhà văn Khuất Quang Thụy có cái xe cub DD đỏ huyền thoại. Dạo tôi mới về Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông đưa con gái xuống ở cùng cho cháu học đại học. Hai bố con hàng ngày làm việc, học hành, rau cháo nuôi nhau, rồi cuối tuần ông lại phóng xe DD màu đỏ chở con về quê. Dưa cà, mắm muối, gạo ngô… chở xuống Hà Nội; sách vở, tiểu thuyết chở về quê. Tất tần tật đều chất lên cái xe DD đỏ, rồi đi làm phóng viên xuống các đơn vị, cơ quan, đi viết sử sư đoàn cũng cưỡi con xe thần thánh ấy đi.
***
Hiệp định Paris về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Khuất Quang Thụy may mắn có một thời gian làm việc trong "Nhà hòa hợp" - cả hai bên giám sát nhau thực hiện hiệp định. Trước đây làm lính trinh sát thì chiến tuyến địch ta trên đầu nòng súng. Lúc này, bên này và bên kia cách nhau mỏng manh một làn khói thuốc, thậm chí đời thường cao hứng còn bắt tay nhau. Ông có dịp quan sát phía bên kia một cách trực quan sinh động, lạ lẫm đến mức ngạc nhiên. Họ sống động với sắc lính, quân hàm, danh dự chiến binh, hoàn toàn khác với vẻ khép nép, sợ hãi khi bị bắt làm tù binh và lúc bại trận. Dù trí nhớ tuyệt vời, nhưng ông vẫn cẩn thận ghi chép tỉ mỉ từ dáng hình, nụ cười, gương mặt, lời nói người lính phía bên kia.
Món tư liệu ấy còn vật vã nằm trong hành trang nhà văn chiến sĩ của ông suốt 40 năm sau ông mới lấy ra viết tiểu thuyết "Đối chiến" với cảm hứng về chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, mà phía bên kia gọi là "Chiến dịch Lam Sơn 719". Những đại úy Ngô Thanh Vân, thiếu tá Huỳnh Xuân Thời, đại tá Sơn Đường vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng, hư cấu của nhà văn, vừa là bóng dáng cuộc đời của người lính phía bên kia mà họ từng mời ông thuốc quân tiếp vụ và ông từng châm lửa cho họ hút thuốc.
Khuất Quang Thụy đến với văn chương bắt đầu bằng thơ, ông có bài thơ "Hoa trên đường" viết khi đơn vị đánh nhau ở Gia Lai năm 1973: "Em gái giao liên chưa biết làm thơ/ Sao em nói những lời rất đẹp/ Thấy trên đường dọc ngang dấu dép/ Em bảo rằng mặt đất trải đầy hoa/ Đưa bộ đội hành quân trong mưa/ Dép tuột quai em xách tay lủng lẳng/ Đất thì đỏ mà chân em thì trắng/ Hoa dấu chân em gửi lại trên đường/ Năm cánh xòe về một hướng: Tiền phương". Thơ của một thời trong sáng, lãng mạn và náo nức ra trận nâng bước các chiến sĩ trên đường hành quân thật quý giá. Sau này, ông vẫn làm thơ nhưng văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết mới là sở trường của ông.
Sự nghiệp văn chương của Khuất Quang Thụy khá đồ sộ. Đồ sộ cả số lượng trang, độ dầy của quyển sách, mà các vấn đề phản ánh đều to lớn, vạm vỡ. Nhà văn Khuất Quang Thụy là một nhà văn chiến tranh ưu tú. Ông có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với hàng chục truyện ngắn, và những tiểu thuyết như: "Trong cơn gió lốc" (tiểu thuyết, 1979); "Trước ngưỡng cửa bình minh" (tiểu thuyết, 1985); "Người ở bến Phù Vân" (tập truyện, 1985); "Không phải trò đùa" (tiểu thuyết, 1985); "Giữa ba ngôi Chúa" (tiểu thuyết, 1989); "Góc tăm tối cuối cùng" (tiểu thuyết, 1990); "Người đẹp xứ Đoài" (tiểu thuyết, 1991).
Bẵng đi hơn 10 năm ông không ra sách mới, nhưng đó là thời kì nghĩ ngợi, tích lũy năng lượng, dồn nén cảm xúc và bùng nổ. Chỉ trong 7 năm, ông in liền 3 quyển tiểu thuyết dày dặn, quyển nào cũng nặng như viên gạch, nặng cả về dung lượng phản ánh: "Những bức tường lửa" (2000), "Đối chiến" (2010), "Đỉnh cao hoang vắng" (2016).
Năm 2007, Khuất Quang Thụy đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật cho cụm 3 tiểu thuyết: "Trong cơn gió lốc", "Không phải trò đùa", "Góc tăm tối cuối cùng". Được tôn vinh thế cũng xứng đáng một đời viết văn, nhưng tôi đồ rằng sức nặng và tầm vóc của ba cuốn tiểu thuyết ông viết cuối đời: "Những bức tường lửa", "Đối chiến", "Đỉnh cao hoang vắng" đã góp vào sự nghiệp văn chương đồ sộ của ông và xứng đáng được tôn vinh, đánh giá cao hơn.